gửi bởi 186031064014 » Thứ 6 17/05/19 7:31
Bài tập thực hành 4: Xây dựng định nghĩa
Định nghĩa “Văn hóa biển”
1. Tìm và phân loại những định nghĩa “văn hóa biển” hiện có
Hiện có 2 nhóm khái niệm "văn hóa biển" và "văn hóa biển đảo". Tác giả đề tài tán thành ý kiến cho rằng có thể hiểu chúng là một, từ đó tìm kiếm các định nghĩa liên quan.
(i) Nguyễn Duy Thiệu. (2007). Suy ngẫm về văn hóa biển ở Việt Nam. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 10-2007, 28-30 & 43.
Theo Nguyễn Duy Thiệu (2007), tiếp cận từ nhân học văn hóa, văn hóa biển là “lối sống của cộng đồng cư dân dọc theo ven biển, khai thác (và tham gia khai thác) các nguồn lợi thuỷ sinh ở sông, biển nói chung để sinh tồn”. (tr.28)
(ii) Ngô Đức Thịnh. (2010). Truyền thống văn hóa biển cận duyên của người Việt. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 317, tháng 11-2010, 15-21.
và Ngô Đức Thịnh. (2011). Từ văn hóa biển cận duyên truyền thống đến công nghiệp hóa biển hiện nay. Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, số 22+23/2011, 56-63.
Theo Ngô Đức Thịnh (2010, 2011), văn hóa biển thuộc nhóm văn hóa sinh thái, là “hệ thống các tri thức của con người về môi trường biển, các giá trị và biểu trưng rút ra từ những hoạt động sống trong môi trường ấy, cùng với nó là những cảm thụ, hành vi ứng xử, những nghi lễ, tập tục, thói quen của con người tương thích với môi trường biển. (tr.56)
Tác giả giải thích văn hóa sinh thái là “văn hóa sản sinh ra trong quá trình con người thích ứng với môi trường sống, từ đó hình thành nên những tri thức, những hành vi ứng xử, những tập tục, nghi lễ, thói quen... tương thích với môi trường sinh thái ấy. Tất cả những cái đó nhằm đảm bảo cho sinh tồn và sự đáp trả của con người trước những thách thức của môi trường sống”. (tr.56)
Dựa trên tình hình nghiên cứu thực tế ở Việt Nam, Ngô Đức Thịnh đưa ra thêm khái niệm “biển cận duyên” và “văn hoá biển cận duyên”, trong đó biển cận duyên là “một vùng biển và đất liền chạy dọc bờ biển, mà ở đó có sự đan kết về các yếu tố địa lý môi trường và phương thức khai thác của cư dân”, nhấn mạnh tới “vùng biển chạy ven đất liền” để phân biệt với vùng duyên hải - nhấn mạnh tới “dải đất liền ven biển”. (tr.58)
(iii) Ngô Thị Thu Hương. (2014). Văn hóa biển vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(85)-2014, 100-107.
Theo Ngô Thị Thu Hương (2014), văn hóa biển “là một dạng văn hóa sinh thái, bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo và tích lũy được; có liên quan đến môi trường biển trong quá trình sống, lao động của mình” (tr.100); và đặc trưng văn hóa biển “là những nét văn hóa riêng biệt, dễ nhận biết và chỉ có ở cư dân sống trong vùng ven biển và hải đảo”, “không trộn lẫn với những đặc trưng văn hóa của những cư dân ở vùng khác”, “được thể hiện trong đời sống văn hóa vật chất, tinh thần và xã hội của chính cộng đồng cư dân đó”. (tr.100-101)
(iv) Trần Ngọc Thêm. (2011). Văn hóa biển đảo và văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa (cái nhìn Nha Trang 2011). Báo cáo đề dẫn trình bày tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa” do UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức tại Nha Trang ngày 15-6-2011, trong khuôn khổ Chương trình Festival Biển - 2011 “Nha Trang - Biển hẹn”, đã in trong Kỷ yếu hội thảo (2012, tr.15-46).
Chọn in lại trong Trần Ngọc Thêm. (2014). Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng. TP. Hồ Chí Minh: Văn hóa - Văn nghệ.
Theo Trần Ngọc Thêm (2011, 2014), văn hoá biển “là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo ra và tích lũy được trong quá trình tồn tại lấy biển làm nguồn sống chính” (tr.129). Theo tác giả, với định nghĩa này, văn hoá biển trước hết phải là văn hoá, phải thỏa mãn 4 đặc trưng của văn hoá nói chung là tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử. Ngoài 4 đặc trưng chung, có 2 đặc trưng riêng làm nhiệm vụ khu biệt văn hoá biển với các dạng thức văn hoá khác: Thứ nhất là đặc trưng về không gian tồn tại: “lấy biển cả làm nguồn sống”. Thứ hai là đặc trưng định lượng về không gian tồn tại ấy: biển cả không chỉ là nguồn sống mà phải là “nguồn sống chính”.
(v) Vũ Minh Giang. (2014). Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển đảo Việt Nam - Thực trạng và một số vấn đề đang đặt ra. Tạp chí Di sản văn hóa, số 4(49)-2014, 21-23.
Theo Vũ Minh Giang (2014), “từ xa xưa, con người đã tiếp xúc với biển và trong quá trình tương tác với biển và đảo vì mục đích tồn tại và phát triển đã sáng tạo ra vô vàn giá trị, gọi chung là văn hóa biển đảo”, và “với ý nghĩa văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra, văn hóa biển đảo cũng có thể phân thành hai hợp phần: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể”. Theo tác giả, về đại thể, “văn hóa vật thể là những sáng tạo hiện hình dưới dạng thức vật chất, như các loại công cụ, phương tiện đi lại phục vụ khai thác biển và các sản vật chỉ có trên hải đảo và sinh hoạt hàng ngày của cư dân ven biển, hải đảo, là những công trình kiến trúc gắn với môi trường biển đảo…” và “văn hóa phi vật thể là những sáng tạo tồn tại dưới dạng kiến thức hàng hải, kinh nghiệm luồng lạch, những hiểu biết có thể truyền lại cho các thế hệ sau về ngư trường, rạn san hô, kỹ năng bơi lặn, kỹ thuật đóng tàu thuyền và hệ thống tín ngưỡng, dân ca, truyền thuyết, thần thoại, lễ hội… gắn với cư dân ven biển và hải đảo”. (tr.21)
(vi) Nguyễn Duy Thiệu. (2015). Nhận diện văn hóa biển - đảo Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96)-2015, 78-88.
Theo Nguyễn Duy Thiệu (2015), văn hóa biển - đảo là “hệ thống các thực thể vật chất và các thực thể tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thích nghi với môi trường biển - đảo để sinh tồn. (tr.80)
(vii) Nguyễn Chí Bền. (2015). Văn hóa biển đảo Việt Nam, giá trị và cách tiếp cận. Tạp chí Văn hoá học, số 1(17)-2015, 11-18.
Theo Nguyễn Chí Bền (2015), văn hóa biển đảo là kết quả của một quá trình sáng tạo của cư dân biển đảo, giải quyết các quan hệ phải ứng xử là quan hệ với môi trường tự nhiên, quan hệ với môi trường xã hội và quan hệ với chính mình.
2. Phân tích từng (nhóm) đ/n theo các yêu cầu của đ/n. Nếu có đ/n đáp ứng tất cả các yêu cầu thì chấp nhận và sử dụng.
- ĐN (i): vừa đề cập, vừa nhấn mạnh đến yếu tố "sông" khi nói về văn hóa biển => gây hiểu nhầm, sai lệch khái niệm (có thể đó là "văn hóa sông nước").
- ĐN (ii): là định nghĩa miêu tả, thiếu tính khái quát, không thể liệt kê hết, dẫn đến liệt kê sót.
- ĐN (iii): nói VHB “là một dạng văn hóa sinh thái" nhưng không giải thích thế nào là VHST, đồng thời cách diễn đạt "bao gồm tất cả những gì..." mang hàm ý chung chung, không có nhiều giá trị làm việc.
- ĐN (v): cách diễn đạt "từ xa xưa..." => không mang tính khoa học, cách diễn đạt "vô vàn..." mang hàm ý chung chung, không có nhiều giá trị làm việc.
- ĐN (vi): cách diễn đạt "thực thể tinh thần" gây hoang mang, khó hiểu khi tiếp nhận định nghĩa.
- ĐN (vii): cách diễn đạt "sáng tạo..." quá chung chung, không rõ mục đích sáng tạo để làm gì, đồng thời khi giải quyết các quan hệ phải ứng xử cũng đã đòi hỏi con người phải sáng tạo rồi.
- ĐN (iv): có ưu điểm ngắn gọn, diễn đạt tường minh, là định nghĩa nêu đặc trưng, khái niệm văn hóa biển được khu biệt bằng những dấu hiệu cơ bản để nhận diện => là định nghĩa để làm việc (working definition), có thể sử dụng được.