Bài tập 6:
Chọn một khái niệm trong đề tài, làm 1 định nghĩa
Định nghĩa “yêu đồng tính” (hay “đồng tính”, “đồng tính ái”, “đồng tính luyến ái”):
Bước 1: Tìm tất cả định nghĩa hiện có
Theo cố Bác sỹ Trần Bồng Sơn: Đồng tính ái: Là những người chỉ quan hệ với người cùng phái, nam với nam (gay, pêđê) hoặc nữ với nữ (lesbian). Họ còn được gọi là “thiểu số tình dục”. Về mặt bệnh lý học tâm thần, họ được xếp vào nhóm lệch lạc đối tượng trong các bệnh lệch lạc tình dục.
Theo Wikipedia: Đồng tính luyến ái, hay đồng tính chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Đồng tính luyến ái cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đó và sự tham gia vào một cộng đồng có chung điều này. Gay (từ tiếng Anh) chỉ người đồng tính nam, lesbian hay đọc ngắn là les là chỉ người đồng tính nữ.
Theo Ông Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE): Đồng tính không phải là bệnh mà là xu hướng tình dục bình thường. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã loại đồng tính ra khỏi danh sách bệnh từ năm 1990 và coi đây là một phần trong sự đa dạng của xu hướng tình dục. Tôi cho rằng, tình yêu giữa những người đồng giới là một phần tự nhiên của cuộc sống, nếu pháp luật cho phép hai người đồng giới yêu nhau và ở với nhau là điều rất nhân văn. Một số nước như Hà Lan, Thụy Điển đã cho phép hôn nhân đồng tính, thừa nhận quyền kết hôn của họ.
Theo Wikiphununet (http://www.phununet.com/WikiPhununet/ChiTietWiKi.aspx?m=0&StoreID=270): Đồng tính luyến ái, viết tắt là ĐTLA, được đọc ngắn là đồng tính, hay một cách khiếm nhã là pê-đê (từ tiếng Pháp pédé, ngắn cho pédérastie - loạn dâm), hay gay (từ tiếng Anh, thường dùng cho phái nam) và lesbian (dùng cho phái nữ), là việc yêu đương hay mối quan hệ tình dục giữa những người đồng giới tính với nhau.
Khái niệm này khác với khái niệm ái nam ái nữ, bán nam bán nữ, hay giới tính thứ ba. Đồng tính luyến ái không phải là một giới tính, mà là một trong những thiên hướng tính dục (sexual orientation).
Chọn một khái niệm trong đề tài, làm 1 định nghĩa
Định nghĩa “yêu đồng tính” (hay “đồng tính”, “đồng tính ái”, “đồng tính luyến ái”):
Bước 1: Tìm tất cả định nghĩa hiện có
Theo cố Bác sỹ Trần Bồng Sơn: Đồng tính ái: Là những người chỉ quan hệ với người cùng phái, nam với nam (gay, pêđê) hoặc nữ với nữ (lesbian). Họ còn được gọi là “thiểu số tình dục”. Về mặt bệnh lý học tâm thần, họ được xếp vào nhóm lệch lạc đối tượng trong các bệnh lệch lạc tình dục.
Theo Wikipedia: Đồng tính luyến ái, hay đồng tính chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Đồng tính luyến ái cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đó và sự tham gia vào một cộng đồng có chung điều này. Gay (từ tiếng Anh) chỉ người đồng tính nam, lesbian hay đọc ngắn là les là chỉ người đồng tính nữ.
Theo Ông Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE): Đồng tính không phải là bệnh mà là xu hướng tình dục bình thường. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã loại đồng tính ra khỏi danh sách bệnh từ năm 1990 và coi đây là một phần trong sự đa dạng của xu hướng tình dục. Tôi cho rằng, tình yêu giữa những người đồng giới là một phần tự nhiên của cuộc sống, nếu pháp luật cho phép hai người đồng giới yêu nhau và ở với nhau là điều rất nhân văn. Một số nước như Hà Lan, Thụy Điển đã cho phép hôn nhân đồng tính, thừa nhận quyền kết hôn của họ.
Theo Wikiphununet (http://www.phununet.com/WikiPhununet/ChiTietWiKi.aspx?m=0&StoreID=270): Đồng tính luyến ái, viết tắt là ĐTLA, được đọc ngắn là đồng tính, hay một cách khiếm nhã là pê-đê (từ tiếng Pháp pédé, ngắn cho pédérastie - loạn dâm), hay gay (từ tiếng Anh, thường dùng cho phái nam) và lesbian (dùng cho phái nữ), là việc yêu đương hay mối quan hệ tình dục giữa những người đồng giới tính với nhau.
Khái niệm này khác với khái niệm ái nam ái nữ, bán nam bán nữ, hay giới tính thứ ba. Đồng tính luyến ái không phải là một giới tính, mà là một trong những thiên hướng tính dục (sexual orientation).
Bước 2: Phân tích từng định nghĩa theo yêu cầu của định nghĩa:
Bước 3: Phân loại các định nghĩa, xác định nét nghĩa chung có thể tiếp thu, những đặc trưng sai/thiếu, cần bổ sung, sửa chữa:
Các định nghĩa nêu trên đều là những định nghĩa nêu đặc trưng.
Những nét nghĩa chung có thể tiếp thu:
- Một xu hướng tính dục
- Bị hấp dẫn bởi những người cùng giới tính
- Trên phương diện tình yêu hay tình dục
Bước 4: Tìm tất cả các cách khái niệm hiện hành, đối chiếu với kết quả để điều chỉnh bổ sung các đặc trưng cùng nội dung cụ thể của chúng:
Trên thế giới, hiện nay đã có nhiều nước công nhận yêu đồng tính là một xu hướng tự nhiên và lành mạnh, luật pháp của nhiều nước cũng đã công nhận việc này. Các khái niệm khi nói về yêu đồng tính khác trên thế giới về đặc trưng đều tương tự với những đặc trưng nêu trên nên sẽ không bổ sung thêm.
Bước 5: Xác định đặc trưng giống (khái niệm chung cùng loại)
Một xu hướng tính dục
Bước 6: Xác định các đặc trưng loài (khu biệt khái niệm được định nghĩa với những khái niệm khác cùng bậc)
(1) Của những người cùng giới (khác với yêu khác giới)
(2) Hấp dẫn nhau (khác với lãnh cảm)
(3) Trên phương diện tình yêu hay tình dục (khác với tình đồng chí, tình bạn)
Bước 7: Lập sơ đồ kiểm tra việc đáp ứng các yêu cầu về hình thức và nội dung, chỉnh sửa lại:
Định nghĩa rút ra: Yêu đồng tính (hay đồng tính luyến ái) là một xu hướng tính dục của những người cùng giới hấp dẫn nhau trên phương diện tình yêu hay tình dục.