Phương pháp Dịch lý là một bộ phận trong Hệ phương pháp Dịch lý - Hệ thống - Loại hình do GS. Trần Ngọc Thêm xây dựng để phục vụ cho việc nghiên cứu văn hoá học và đang áp dụng thử nghiệm trong việc đào tạo cao học năm nay là năm thứ hai. Vận dụng quy trình của phương pháp Dịch lý vào việc xử lý các đối tượng văn hoá là một bài tập của quy trình đào tạo và Vận dụng Quy trình của PP Dịch lý để phân tích hiện tượng “Giờ dây thun / Giờ cao su” là một bài tập đã được thực hiện dưới hình thức seminar trên lớp Cao học VHH khóa 11 dưới sự hướng dẫn của GS. Thêm trong buổi học ngày 3-3-2011.
Thực hiện nhiệm vụ thầy giao, hoanglanqb xin tổng hợp các ý kiến của thầy và các bạn đã nêu ra và trao đổi trên lớp trong topic này để tiện tham khảo.
Nội dung Quy trình bốn bước của phương pháp Dịch lý mà GS. Trần Ngọc Thêm xây dựng như sau:
Bước 1: Kiểm tra tính tương hiện: giúp tìm ra tri thức mới, tránh cực đoan một chiều.
Bước 2: Kiểm tra tính tương hóa: giúp nắm được hướng phát triển.
Bước 3: Kiểm tra tính hướng hòa: giúp chọn được giải pháp tối ưu, hữu hiệu.
Bước 4: Kiểm tra hướng mở rộng (bước phụ, không bắt buộc): giúp xây dựng được lý thuyết phù hợp.
0
“Giờ dây thun” là một hiện tượng khá phổ biến ở Việt Nam và hiện nay đang trở thành một vấn đề tương đối bức xúc. Cốt lõi của vấn đề này mâu thuẫn giữa tính linh hoạt truyền thống (làm sao tiện lợi nhất) với tính nguyên tắc đúng giờ của cuộc sống công nghiệp hóa. “Giờ dây thun” bộc lộ trong các hoạt động có hẹn giờ hoặc quy định giờ giấc (vd làm việc, đi chơi, đám cưới...). Xét về chủ thể trong hoạt động này có hai loại chủ thể là người hẹn/ mời / triệu tập và người được hẹn/ được mời / được triệu tập.
1
Kiểm tra tính tương hiện, trong trường hợp này cụ thể là Tính linh hoạt truyền thống có trong nhu cầu đúng giờ và ngược lại. Điều này thể hiện ở:
Chủ thể ứng xử theo thói quen linh hoạt truyền thống tranh thủ tiếp tục ờ nhà giải quyết việc của mình thay vì đến (nơi xảy ra sự kiện) ngồi chờ.
Chủ thể ứng xử theo tính nguyên tắc đúng giờ của cuộc sống CNH muốn đúng giờ phải sống chung với thói quen linh hoạt truyền thống.
2
Kiểm tra tính tương hóa, trong trường hợp này cụ thể là Chủ thể linh hoạt đến sau nhưng hóa ra đúng giờ và ngược lại chủ thể có nhu cầu đúng giờ hóa ra lại rất linh hoạt. Điều này thể hiện ở:
Chủ thể ứng xử theo tính linh hoạt truyền thống tranh thủ tiếp tục ờ nhà giải quyết việc của mình vì biết rằng có đến (nơi xảy ra sự kiện) cũng ngồi chờ mà thôi. Thành ra tuy chủ thể này đến muộn so với giờ quy định nhưng thường là đến nơi và lúc sự kiện chuẩn bị / vừa mới bắt đầu nên thành ra anh ta khá đúng giờ.
Chủ thể ứng xử theo tính nguyên tắc đúng giờ của cuộc sống CNH đã đến nơi đúng giờ nhưng vì sự kiện chưa diễn ra nên đã tranh thủ làm những việc xét thấy có lợi cho mình như mở rộng quan hệ, gặp gỡ bàn bạc giải quyết công việc, hay đơn thuần là trò chuyện giải trí..., tức là đã hàng động một cách linh hoạt.
3
Kiểm tra tính hướng hòa, trong trường hợp này cụ thể là cả hai loại chủ thể tuy hành động trái chiều nhau nhưng cả hai đều muốn sử dụng hợp lý thời gian. Điều này thể hiện ở:
Người linh hoạt biết có rất nhiều người không đúng giờ nên đã linh hoạt tranh thủ giải quyết việc cá nhân để không lãng phí thời gian.
Ngược lại, người đúng giờ tuy biết có rất nhiều người không đúng giờ nhưng vì muốn góp phần tạo nên thói quen đúng giờ của cộng đồng (hoặc vì mục đích nào đó khác) nên đã đến đúng giờ. Tóm lại, cả hai loại chủ thể đều muốn đúng giờ.
4
Mở rộng:
Cần dần dần tạo thói quen đúng giờ cho cả hai đối tượng nêu trên.
Việc này tùy thuộc vào việc quyền chủ động trong sự kiện đang xét thuộc về loại chủ thể nào. Chủ thể có quyền thì sẽ có vai trò quyết định trong việc dẫn dắt cộng đồng thực hiện triết lý của mình.
Ví dụ, trong công việc thì quyền thuộc về người hẹn/ mời / triệu tập, nên ông ta có quyền cứ đúng giờ là làm và sẽ áp dụng biện pháp phê bình / trừng phạt khi ai đó không đúng giờ và nhờ thế mà người được hẹn/ được mời / được triệu tập sẽ nhanh chóng có thói quen này. Trong sinh hoạt cộng đồng (vd đám cưới) thì quyền thuộc về người được hẹn/ được mời, nên người hẹn/ mời đành phải chấp nhận việc muộn giờ, nhưng có những cách đối phó, vd như quy định “giờ tiếp khách” và “giờ nhập tiệc”.
Bài tổng hợp trên tuy đã được thầy xem qua và chỉnh sửa, nhưng còn thiếu nhiều ý kiến rất hay của các bạn đã trình bày trên lớp mà hoanglanqb không ghi chép kịp nên còn bỏ sót. Mong các bạn đã trình bày trên lớp (như Thùy, Nghĩa, Hiệp, chị Nhu Mỳ...) và cả các bạn chưa có thời gian trình bày trên lớp tham gia bổ sung ý kiến của mình cho bài này đầy đủ hơn.
Xin cảm ơn.