Giảng viên : GS.TSKH TRẦN NGỌC THÊM
Học viên : NGUYỄN XUÂN QUỲNH
Lớp : CAH2012
TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI VIỆT
Việt Nam, một quốc gia thuộc nền văn hoá nông nghiệp lúa nước. Tại đây có thể nói là có đầy đủ những đặc điểm chủ yếu của văn hoá truyền thống phương Đông mà theo GS. TS. Mai Ngọc Chừ gồm có:
1.Tính chất nông nghiệp – nông thôn.
2.Tính chất “chủ toàn” và tổng hợp.
3.Tính cộng đồng và cách ứng xử tình cảm mềm dẻo.
4.Tính chất hoà đồng thuận tự nhiên.
5.Tính chất trọng tĩnh, hướng nội và khép kín.
Từ đó có thể thấy tính cộng đồng là một trong những biểu hiện đặc trưng của văn hoá truyền thống phương Đông, trong đó có cả Việt Nam.
Tính cộng đồng xét trong phạm vi làng (đơn vị tổ chức xã hội truyền thống), theo GS. TSKH Trần Ngọc Thêm thì “là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng đến những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại”. Đây là tính chất do loại hình văn hoá gốc nông nghiệp chi phối. Với đặc trưng văn hoá nông nghiệp thì con người phương Đông, cụ thể là Việt Nam phải đoàn kết, cùng nhau sản xuất, chống chọi với thiên tai, dịch bệnh… trải qua thời gian thì chính môi trường lao động, sản xuất tập thể đã hình thành nên tính cộng đồng của con người Việt Nam. Đặc điểm của tính cộng đồng là mỗi cá nhân đều sẵn sàng hi sinh lợi ích của riêng bản thân vì cộng đồng, tập thể, xã hội.
Còn trong bài viết “Vài ý kiến về tính cộng đồng của người Việt dưới góc nhìn văn hoá”, tác giả Hữu Ngọc có nêu ý kiến của GS Trần Văn Giàu cho rằng khái niệm “tính cộng đồng theo nghĩa rộng thông thường tiếng Việt đó là ý thức và tình cảm gắn bó người tộc Việt với nhau (tức là tính cộng đồng dân tộc Việt), là hệ thống tư tưởng yêu nước”. Còn “theo nghĩa hẹp của bộ môn Nhân học văn hóa, tính cộng đồng chỉ sự gắn bó với từng nhóm trong cộng đồng dân tộc lớn… gần như tính tập thể”.
Ở đây cần phân biệt hai khái niệm “tính cộng đồng” và “văn hoá cộng đồng”, nếu “tính cộng đồng” được hiểu theo như những nội dung trình bày ở trên thì “văn hoá cộng đồng” có thể hiểu đơn giản là hình thức tồn tại, là biểu hiện của ý thức cộng đồng, và được dùng để phân biệt giữa cộng đồng này và cộng đồng khác.
1.Tính chất nông nghiệp – nông thôn.
2.Tính chất “chủ toàn” và tổng hợp.
3.Tính cộng đồng và cách ứng xử tình cảm mềm dẻo.
4.Tính chất hoà đồng thuận tự nhiên.
5.Tính chất trọng tĩnh, hướng nội và khép kín.
Từ đó có thể thấy tính cộng đồng là một trong những biểu hiện đặc trưng của văn hoá truyền thống phương Đông, trong đó có cả Việt Nam.
Tính cộng đồng xét trong phạm vi làng (đơn vị tổ chức xã hội truyền thống), theo GS. TSKH Trần Ngọc Thêm thì “là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng đến những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại”. Đây là tính chất do loại hình văn hoá gốc nông nghiệp chi phối. Với đặc trưng văn hoá nông nghiệp thì con người phương Đông, cụ thể là Việt Nam phải đoàn kết, cùng nhau sản xuất, chống chọi với thiên tai, dịch bệnh… trải qua thời gian thì chính môi trường lao động, sản xuất tập thể đã hình thành nên tính cộng đồng của con người Việt Nam. Đặc điểm của tính cộng đồng là mỗi cá nhân đều sẵn sàng hi sinh lợi ích của riêng bản thân vì cộng đồng, tập thể, xã hội.
Còn trong bài viết “Vài ý kiến về tính cộng đồng của người Việt dưới góc nhìn văn hoá”, tác giả Hữu Ngọc có nêu ý kiến của GS Trần Văn Giàu cho rằng khái niệm “tính cộng đồng theo nghĩa rộng thông thường tiếng Việt đó là ý thức và tình cảm gắn bó người tộc Việt với nhau (tức là tính cộng đồng dân tộc Việt), là hệ thống tư tưởng yêu nước”. Còn “theo nghĩa hẹp của bộ môn Nhân học văn hóa, tính cộng đồng chỉ sự gắn bó với từng nhóm trong cộng đồng dân tộc lớn… gần như tính tập thể”.
Ở đây cần phân biệt hai khái niệm “tính cộng đồng” và “văn hoá cộng đồng”, nếu “tính cộng đồng” được hiểu theo như những nội dung trình bày ở trên thì “văn hoá cộng đồng” có thể hiểu đơn giản là hình thức tồn tại, là biểu hiện của ý thức cộng đồng, và được dùng để phân biệt giữa cộng đồng này và cộng đồng khác.