gửi bởi sinan » Thứ 6 04/01/08 23:03
Khi việc mua bán không thành, người bán người mua đi về đâu? Chẳng đi về đâu cả, hai giả danh đó không còn nữa, không có một vật liệu, một cá nhân nào bị “diệt” cả. Củi tàn thì lửa tắt, lửa không đến từ đâu, chẳng đi về đâu. Một đội đá bóng cùng nhau tranh tài trên sân cỏ thì có đội bóng, sau tiếng còi tan cuộc thì “đội bóng” không có, chỉ còn những cầu thủ đơn lẻ không thể hỏi đội bóng đi về đâu. Tương tự như thế, từ câu kệ “Chẳng đến cũng chẳng đi”, ta có thể suy ra ý nghĩa của các câu còn lại.
Nhiều thắc mắc xuất phát từ chỗ một bên Đức Phật nói mọi pháp “có sinh có diệt”, bên kia Trung Quán lại nói “chẳng sinh chẳng diệt”, không phải là mâu thuẫn ư? Lại lấy thí dụ chiếc xe: khi các bộ phận được ráp đầy đủ thì chiếc xe được sinh ra, nhưng chỉ là một giả danh, không có một chiếc xe thực. “Có sinh có diệt” là có một giả danh sinh ra, có một giả danh hoại diệt. Trung quán nói “chẳng sinh chẳng diệt” vì thực tế không có một chiếc xe đích thực nào được sinh ra, một chiếc xe đích thực nào bị hủy hoại. Sinh và Diệt cũng như Đến và Đi, Sinh không từ đâu lại, Diệt không đi về đâu(19).
Thế nên, trong cách nhìn của Trung quán thì mọi pháp, mọi sự vật là một sự trình hiện. Trong quan niệm “trình hiện” này thì điều đáng nhớ là trình hiện cho một chủ thể, không có chủ thể thì không có trình hiện, cũng như không có người mơ thì không có giấc mơ. Trong vũ trụ mọi sự vật, mọi pháp không có tính chất riêng tư, chúng không đến không đi, chúng không thật có sinh có diệt... chúng chỉ xuất hiện như thế trong tương quan với mọi sự xung quanh và với người đang ngắm nhìn chúng.
Còn chủ thể con người, khi sinh ra đã tưởng vũ trụ, thế giới và mọi vật là có sẵn, có tự tính, tồn tại độc lập. Đó là một sự nhầm lẫn của tri thức. Và sự nhầm lẫn tai hại nhất là chính mình cũng chỉ là một giả hợp của các yếu tố tâm lý và thể chất, nhưng lại tưởng là một cái Tôi riêng biệt nằm sau chúng và điều khiển chúng.
Trong vật lý hiện đại thì “hạt” là một pháp. Do đó hạt là một sự trình hiện khi ta nhìn nó và thấy nó có tính chất của hạt, như khi ta thấy một vật bằng gỗ để ngồi và gọi nó là “cái ghế”. Cho nên, theo Trung quán, ta không thể đặt câu hỏi, nếu ta không quan sát hạt thì hạt ở đâu. Vì hạt chỉ có trong mối tương quan với quan sát viên, nên khi không ai quan sát hạt cả thì không có hạt. Khi chưa ai mở lồng xem con mèo của Schrodinger sống chết thế nào thì không có con mèo đối với ai cả(20). Cũng như khi không ai mua bán cả thì
không có người bán lẫn nguời mua.
Hãy nhớ lại vài phát biểu của những nhà vật lý trong ngành cơ học lượng tử. Heisenberg từng nói “nguyên tử không phải là một vật”. Ở đây ông đã thừa nhận nguyên tử không có chất liệu, và như thể là đã từ bỏ quan niệm “chất liệu” truyền thống của ngành vật lý khi nghĩ về thực tại vật lý. Trong quá trình quan sát hạt, khi phải làm “sụp đổ” phương trình sóng để xác định vị trí hay xung lượng của hạt, nhiều nhà vật lý băn khoăn, thế thì khi ta không quan sát hạt thì hạt ở đâu. Heisenberg cho rằng câu hỏi đó là “vô nghĩa”; và ông đã có một quan niệm rất gần với của thuyết Trung quán về các pháp.
R.J. Oppenheimer(21), nhà vật lý xuất sắc người Mỹ, từng viết về hạt electron: “Thí dụ khi ta hỏi, liệu electron vẫn giữ nguyên vị trí hay không, ta phải trả lởi “không”; khi ta hỏi, liệu vị trí electron có thay đổi theo thời gian không, ta phải trả lời “không”; khi ta hỏi liệu electron nằm yên, ta phải trả lời “không”; khi ta hỏi liệu nó đang vận động, ta phải trả lời “không”. Đó là “bốn không” của Oppenheimer, mới nghe rất giống “tám không” của Long Thụ. Oppenheimer nói thế vì mỗi lần con người quan sát electron, ta lại thấy hạt, nhưng không thể biết trước đó nó ở đâu và sau đó nó ở đâu và chỉ có thể cho nó một tính chất xác suất. Nếu Long Thụ còn sống, ông sẽ nói, trước đó và sau đó làm gì có electron mà định nghĩa ở đâu. Không có electron vì không có người quan sát nó, nó chỉ có trong tương quan với người quan sát.
Những gì có giá trị cho electron cũng có giá trị cho mọi “pháp”, mọi vật trong thế giới thực tại, từ cực vi đến cực đại. Phải chăng thế giới mà ta đang thấy chỉ là sự trình hiện đối với chúng ta. “Cái gì” đang diễn ra cho chúng ta thấy? Và cuối cùng, chúng ta là ai? Nơi đây, câu hỏi của nhà vật lý chính là câu hỏi về “bản lai diện mục” của Thiền tông Phật giáo./.
Chú thích:
(1) Điều này làm ta nhớ đến “trực giác trí tuệ” của I. Kant.
(2) W. Pauli: “Nhà vật lý thực nghiệm phải nói về những thí nghiệm của mình và vì thế mà anh ta bị buộc phải sử dụng những khái niệm của vật lý cổ điển, mặc dù anh thấy quá rõ rằng những khái niệm đó chỉ cho những mô tả không phù hợp về thiên nhiên. Đó là một vấn nạn căn bản và là một điều mà anh không thể chối từ”, xem Werner Heisenberg, Physics and Beyond. (New York: Harper&Row Publishers, 1971. Nơi đây ta nhớ đến Thiền sư người Nhật D.T.Suzuki, ông viết trong On Indian Mahayana Buddhism, New York: Harper&Row, 1968, “Cái nghịch lý, khó hiểu đối với phép tư duy thông thường, xuất phát từ thực tế là chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ để trao đổi về những kinh nghiệm nội tại mà tự tính của chúng thì siêu việt ngôn từ).
(3) Tiếng Sanskrit: Svabhavah. Theo Long Thụ, tự tính là “cái không do tạo tác, không phải đợi có các pháp khác mới thành”. Long Thụ Trung Luận (Madhyamaka-sastra), phẩm thứ 15, bản dịch của Thích Thiện Siêu. Nhà Xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 2001.
(4)Tiếng Sanskrit: Sunyata.
(5) Long Thụ Trung Luận (Madhya-maka-sastra), phẩm thứ 24.
(6) Long Thụ: “Nếu hết thảy các pháp chẳng không thời không có sinh diệt", sách đã dẫn.
(7) Tiếng Sanskrit: Samvrtisatyam, cũng gọi “Thế tục đế”. Ta sẽ còn đề cập
nhiều đến “thực tại tương đối”. Xin đừng nhầm từ “tương đối” này với “tương đối” trong thuyết Tương đối của Einstein.
(8) Tiếng Sanskrit: Paramar-thasatyam, cũng gọi “Đệ nhất nghĩa đế”. Long Thụ: “Vì chúng sinh, chư Phật nương theo hai đế để thuyết pháp: 1. Thế tục đế. 2. Đệ nhất nghĩa đế. Nếu người đối với hai đế mà không biết, không phân biệt, thì không biết được nghĩa chơn thật của Phật pháp sâu xa”. Trung
luận, phẩm thứ 24.
(9) Trích Bát nhã Tâm kinh.
(10) “Bất khả tư nghì”, từ thường gặp trong kinh luận Phật giáo, chỉ sự thực nằm ngoài phạm vi của lý luận. Ở đây ta nhớ đến tác phẩm nổi tiếng của I.Kant Phê phán lý tính thuần túy với quan niệm cho rằng con người không thể nắm bắt tự tính của sự vật bằng lý tính. Nhan đề của tác phẩm này có lẽ chính là “Bất khả tư nghì”.
(11) Long Thụ: “Thật tướng của các pháp thì tuyệt dứt đường ngôn ngữ và tâm duyên”. Trung luận, phẩm thứ 18.
(12) Tiếng Sanskrit: Sattva, khái niệm quan trọng của đạo Phật. “Hữu tình” chỉ tất cả sinh vật có tình, có thức, tức là tất cả sinh vật sống trong “ba cõi”, trong quan niệm vũ trụ của đạo Phật. Loài người nằm trong cõi Dục giới của ba cõi đó.
(13) Theo Phật học đại từ điển của Đinh Phúc Bảo.
(14) Vì phải một lần sinh con rồi mới được gọi là “người mẹ”.
(15) Có khi “Pháp” được gọi là “Pháp hữu vi”. Thí dụ câu trong kinh Kim Cương “Tất cả pháp hữu vi / Như mộng, ảo, bóng, ảnh”.
(16) Trích Kinh Chánh Kiến, Đức Phật thảo luận với Ca Chiên Diên, Thích Nhật Từ biên soạn.
(17) Pabongka Rinpoche: “Mọi sự vật đang tồn tại là sản phẩm của một cái được gán cho một cái tên và của một cái đang cho cái kia một cái tên. Không hề có một nguyên tử nào của một vật nào trong vũ trụ mà không tuân thủ quy luật này–không có vật gì tồn tại tự nó cả”, xem Tsongkapa, The Principle Teachings of Buddhism, New York: Mahayana Sutra and Tantra Press, 1988. Trong ý nghĩa này, ta nhớ câu nói của Max Planck: “Mỗi sự đo lường có một nội dung vật lý trước hết là nhờ cái ý nghĩa mà một lý thuyết gán cho nó”. Xem Where is Science going?, Woodbridge, CT: Ox Bow Press, 1981.
(18) Trung luận, phẩm thứ nhất.
(19) Hán Việt: Sinh vô sở tùng lai, Diệt vô sở tùng khứ. Theo thuật ngữ đạo Phật thì “có sinh có diệt” là “tướng” của các pháp, “chẳng sinh chẳng diệt” là “tánh” của các pháp. Về mối tương quan này, Thích Thiện Siêu viết trong Trung luận, trang 21: “Phật dạy pháp do nhân duyên sinh là cốt chỉ rõ các pháp không có thực thể không có thật ngã độc lập ngoài các duyên, chứ không phải do nhân duyên sinh ra cái gì khác với nó, nằm riêng ngoài nó, mà nó chỉ hiện có giả tạm trên các duyên, nên nói do duyên sinh mà kỳ thật không sinh ra cái gì thật có độc lập. Nếu do duyên sinh ra cái gì độc lập thì đó là hữu ngã, chứ không phải là duyên sinh vô ngã”. Cụm từ “hiện có giả tạm trên các duyên” là quan trọng nhất trong đoạn văn này, nội dung của nó chính là sự “trình hiện” mà ta đã nói đến từ đầu trong cuốn sách này.
(20) Giả định trong lồng có một con chuột thì dĩ nhiên có một con mèo đối với con chuột, nhưng lúc đó con mèo là thần chết chứ không phải là con mèo đáng thương của chúng ta.
(21) J.Robert Oppenheimer (1904-1967), Science and The Common Undersranding, New York, Simon and Schuster, 1954.
(Trích theo Lưới trời ai dệt của Nguyễn Tường Bách)
(đăng trong NS Giác Ngộ số 99, 06-2004)
Sin Ân