[center]THỬ BÀN VỀ NIỀM TIN TRONG ĐỜI THƯỜNG VÀ
NIỀM TIN TÔN GIÁO[/center]
[center]Võ Văn Thành[/center]
[justify]Trước hết, tôi thấy cần làm rõ thế nào là niềm tin, niềm tin đời thường và thế nào là niềm tin tôn giáo.
Các từ điển khá tên tuổi như từ điển Từ và ngữ Việt Nam của Gs. Nguyễn Lân, NXB TP. Hồ Chí Minh 2000 có một từ nói về niềm tin. Niềm tin = lòng tin tưởng. Việt Ngữ Chánh Tử Tự Vị của Lê Ngọc Trụ, Khai Trí tái bản lần thứ I, 1972 chỉ có một chữ niềm (niệm) = lòng tưởng nhớ. Theo tôi, niềm tin là sự hy vọng của chúng ta vào một điều gì đó hoặc một cái gì đó mà chúng ta chưa thể xác định đó là rõ ràng. Chẳng hạn, một người cầm một đồng xu trong tay sau khi tráo qua trở lại rồi nắm thành hai nắm chìa cho chúng ta đoán trong nắm tay nào có đồng xu. Trong trường hợp đó, ta không biết nắm tay nào có đồng xu, ta có thể đoán nắm tay này có đồng xu nhưng thực tế khi mở ra thì chưa chắc có đồng xu. Theo tôi đó là niềm tin. Niềm tin là cái chưa thể xác thực được, nếu cái gì đó đã được xác thực rõ ràng, không còn phải đoán hay đặt lòng tin vào nữa thì khi đó niềm tin đã trở thành sự thật.
Như vậy khi chúng ta biết một cái gì đó rõ ràng thì đó không còn là niềm tin mà nó đã trở thành sự thật, chúng ta không còn phải đặt cược theo kiểm Pascal nữa, tức là nhảy xuống nước xem mình có bị chết đuối hay không!
Niềm tin trong đời thường là sự hy vọng, trông mong rất bình dị của chúng ta vào những điều trong cuộc sống giúp chúng ta siêu việt (transcend) lên những khó khăn của cuộc sống hay làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được thăng hoa (sublimated). Niềm tin đời thường từ những niềm tin của những người bình thường nhất cho đến các bậc vĩ nhân đều có một vai trò rất lớn trong đời sống của họ. Chúng ta thử tượng tượng một con người không có niềm tin thì cuộc sống của nó sẽ như thế nào? Tôi tin tưởng rằng con người đó không thể có được hạnh phúc và sự bình lặng nội tâm cho dù là một phút giây ngắn ngủi và rốt cuộc dẫn anh ta đến sự tự hủy hoại bản thân mình, hủy hoại môi trường sống và hủy diệt cuộc sống của người khác như Eric Fromm đã viết (chúng tôi sẽ đề cập trong phần niềm tin tôn giáo).
Gia đình được xem là tế bào của xã hội, nếu không có niềm tin giữa các thành viên trong gia đình thì sẽ như thế nào? Nhân đây tôi lấy lại câu chuyện Mỵ Châu-Trọng Thủy trong văn học cổ. Câu chuyện kể lại một bi kịch mất nước của người Việt nhưng theo tôi có ý nghĩa về niềm tin rất lớn. Thục phán vì tin con rể nên mới bị mất nước, ông cũng vì tin con gái mình nên cuối cùng bị cùn đường phải tự vẫn. Mỵ Châu vì tin chồng nên mới tiết lộ bí mật quốc gia cho người chồng yêu quý nhất cũng là kẻ bội tín đáng khinh nhất. Nàng cũng vì tin chồng nên mới mang tội phản quốc và bị cha giết. Sau này nhà thơ Tố Hữu viết:
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm lẫn để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.”
Niềm tin của nàng đối với chồng là niềm tin thật thà, trong trắng cho nên dù bị kết tội phải quốc và bị cha giết nhưng nhà thơ Tố Hữu cảm thông và viết lên những câu thơ như vậy.
Chúng tôi muốn nói rằng: Nếu trong gia đình mà cha không tin con, vợ không tin chồng thì còn có ý nghĩa gì? Cái gia đình đó còn có thể được gọi là một gia đình đúng nghĩa hay không?
Một trường hợp niềm tin khá phổ biến dẫn đến một tập tục và truyền thống đáng tự hào của các dân tộc Đông Nam Á đó là việc tin vào linh hồn của con người sau khi chết đã dẫn đến tập tục thờ cúng tổ tiên mà tôi xét ở đây là tục thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Người Việt tin rằng sau khi ông/bà, người thân mình mất thì linh hồn của họ vẫn thường còn mãi mãi cho nên mới có phong tục thờ cúng tổ tiên. Khi ông bà, cha mẹ còn sống, con cháu phải báo hiếu và làm việc này một cách thành kính nhất là điều tất nhiên. Người Việt tin rằng, hằng năm vào những ngày giỗ kỵ hoặc lễ, Tết thì linh hồn của tổ tiên, ông bà mình về sum họp với con cháu. Đó là cơ hội để cho con cháu báo hiếu ông bà, cha mẹ; hoài niệm về ông bà, cha mẹ; tưởng nhớ tới công đức của ông bà, cha mẹ. Nếu không có ông bà, cha mẹ mình thì mình sẽ không tồn tại ở cõi đời này, do đó việc báo hiếu khi ông bà, cha mẹ còn sống là điều tất yếu phải làm và làm một cách rất hoan hỷ, tự nguyện. Ông bà, cha mẹ tuy đã mất nhưng vẫn còn quanh quẩn đâu đây xung quanh con cháu để chăm sóc chúng, khuyến khích chúng làm điều tốt, răn chúng không nên làm điều xấu. Xã hội người Việt đã từ lâu xem trọng truyền thống thờ cúng ông bà, cha mẹ và còn xem đó là điều bắt buộc đối với con cháu, một trách nhiệm gia đình bị quy định bởi xã hội nhằm duy trì cái đẹp trong xã hội.
Khi cha mẹ mình đã chết, phải chăng là mọi thứ với họ đều đã chấm dứt, đã hết, kể cả tình thương? Không, những người con cháu vẫn rất thương nhớ không nguôi cha mẹ của mình, trong tâm tưởng của con cháu, họ vẫn còn đâu đó. Tập tục thờ cúng ông bà, cha mẹ là sợi giây vô hình kết nối thế giới của những người đang sống với thế giới của những người đã chết và đang sống ở thế giới khác. Đó là sự kết nối truyền thống của các thế hệ, giúp cho các thế hệ không bị khủng hoảng về niềm tin. Chết không phải là hết, mà chết là về với tổ tiên, ông bà. Điều đó là niềm an ủi và cũng là niềm tin giúp cho những người đang sống được sống yên vui, bình lặng nội tâm, vượt qua những khó khăn của đời sống và giúp những người đang sống thăng hoa về mặt tinh thần. Niềm tin của người Việt về việc thờ cúng tổ tiên một cách thành tín nhất xưa nay vẫn là vậy.
Nếu người Việt quan niệm chết là hết và vứt bỏ tất cả những thờ cúng tổ tiên xưa nay thì có khác gì đang bắt chước những cái sai lầm của phương Tây vốn đã bị các nhà phê bình như Eric Fromm phê phán như:
“Ở thế kỷ 19, vấn đề là Thượng Đế đã chết. Ở thế kỷ 20, vấn đề là con người đã chết.” (In the nineteenth century, the problem is that God is dead. In the twentieth century, the problem is that man is dead.) [dẫn lại từ mục Triết học Ấn Độ đối với cuộc khủng hoảng của văn minh Phương Tây, quyển Đại Cương Triết Học Phương Đông, phần I, Minh Chi viết; Đại học tổng hợp 1993].
Câu trên của Eric Fromm cảnh báo một cuộc khủng hoảng niềm tin vào Thượng Đế của người phương Tây, khủng hoảng niềm tin vào tôn giáo truyền thống. Theo tôi, câu trên chỉ đúng với thế giới phương Tây vốn rất hướng ngoại, rất tham vọng, luôn muốn khám phá mọi thứ, thậm chí đã khai tử cho Thượng Đế như Fromm đã nói. Hay như Marx đã xem tôn giáo là “thuốc phiện của nhân dân”:
“Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sanh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái không có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [dẫn lại từ cước chú quyển Các Vấn Đề Phật Học, Minh Chi, Viện Nghiên Cứu Phật Học 1995, tr.63].
Theo tôi, đây cũng là một cuộc khủng hoảng niềm tin ở một thế giới Tư Bản đang phát triển một cách phi nhân bản được coi là “không có trái tim” và tôn giáo là liều thuốc phiện giúp giảm bớt nỗi đau trong cuộc sống hiện thực.
Thế nào là niềm tin tôn giáo? Chúng tôi xin mượn câu nói của Gs. Minh Chi viết về niềm tin tôn giáo như sau:
Niềm tin tôn giáo hay trong hợp từ tín ngưỡng tôn giáo hàm ý một niềm tin ở những cái siêu nhiên, nhưng đối với tôn giáo vẫn rất hiện thực, thậm chí còn hiện thực hơn cả thế giới hiện tượng nữa, nhưng vẫn ở ngoài tầm nắm bắt của giác quan và tri thức của con người bình thường.
Như vậy, niềm tin tôn giáo là niềm tin trong đời thường đã được thăng hoa thành cái niềm tin thiêng liêng trong các tôn giáo lớn, tuy tên gọi có khác nhau nhưng Divine Ground (Thần tánh), Brahman (Đại Phạm, Đại Ngã) theo Ấn Độ giáo, Chân như, hay Phật tánh, hay Niết Bàn hay Pháp thân (theo đạo Phật), Allah (Thượng đế, Thần chủ) bởi Hồi giáo, abyss of Godhead Thần cách vô hạn (theo Gia Tô giáo, phái Huyền Bí) hoặc là bản thể của ba vị Chúa cha, Chúa con và Thánh thần, “Huyền chi hựu huyền, thiên địa chi thủy, vạn vật chi mẫu” theo Đạo giáo v.v… tất cả đều hướng vào cái siêu nhiên ngoài tầm nắm bắt của cảm quan và tri giác của con người. Niềm tin tôn giáo đã thăng hoa con người, giúp con người hướng thượng, tức hướng họ đến cái chân, cái thiện và cái mỹ.
Các tín đồ Phật giáo tin vào Niết Bàn, xem Niết Bàn là mục đích, là khát vọng vươn tới của các tín đồ Phật tử. Các tín đồ Ấn giáo tin và cái Đại ngã là cái ta của vũ trụ, và cái tiểu ngã là cái ta của mỗi cá nhân và tìm cách hòa hợp cái ta Đại ngã hay cái Ta của vũ trụ. Các tín đồ Cơ Đốc giáo đặt niềm tin vào đức Chúa Giê-su hay Thiên đàng hoặc các tín đồ của đạo Hồi tin vào đức Mahômet và kinh Koran v.v… Tất cả đều là niềm tin tôn giáo cao cả của họ đáng được khuyến khích và phát triển.
Trong đạo Phật, địa ngục cũng là một cõi sống của những dạng chúng sinh đã tạo ra những nghiệp cực ác phải nếm trải thì đâu có gì là không tốt với mục đích khuyến khích nhân dân làm điều thiện, xa rời điều ác? Tôi thấy niềm tin vào địa ngục rất có ích trong việc răng ác và khuyến thiện thì tạo sao không nên phát huy mà bị xem là mê tín? Cần nói thêm về mê tín một chút.
Thế nào là mê tín? Mê tín là tin đến mức mê muội và mù quáng, và sự mê muội và mù quáng đó thể hiện thành những hành vi phản xã hội, phi nhân tính, làm rối trật tự công cộng, làm hỏng đạo đức xã hội, thương tổn thuần phong mỹ tục của nhân dân ta. Ví dụ về những biểu hiện mê tín như thế: tuyên truyền cho người ốm uống nước thải, nước tàn nhang, để cho người ốm càng ốm thêm, ốm đến chết. Vu cho người nào đó là có ma quỷ nhập vào rồi hành hạ người đó đến chết. Mượn lời đồng cô, thầy cúng, thầy tướng để lừa đảo những người nhẹ dạ v.v…
Như vậy, chúng ta không được lẫn lộn giữa niềm tin tôn giáo và mê tín vì chúng hoàn toàn khác nhau như đã phân tích.
Bây giờ chúng ta hãy xem những nhân vật nổi bật nhất trong lịch sử nhân loại có niềm tin về tôn giáo như thế nào.
Trước hết tôi xin nói về đức Phật lịch sử, người đã thành lập nên đạo Phật cách đây hơn 2.500 năm. Khi đức Phật Thích Ca tìm ra chân lý giác ngộ rồi, Ngài định là không giảng cho ai hết vì chân lý này không phải dễ gì ai cũng có thể hiểu được, nhưng Ngài lại nhìn xuống ao sen và nói rằng là trình độ tiếp thu giáo lý của chúng sinh cũng giống như những bông hoa sen, có bông thì đã vươn lên khỏi mặt nước thật cao (ví như những người có trình độ tiếp thu giáo lý của Ngài thật nhanh), có những bông sen vừa mới vươn lên ngang mặt nước ví như những người có trình độ kém lớp người đã nói trên và có những bông sen còn ngâm mình dưới nước ví với những người có căn cơ thấp kém. Tuy nhiên tất cả họ đều có thể tiếp thu giáo lý của Ngài theo mỗi cách của họ và Ngài đã quyết định giảng chân lý mà Ngài vừa mới phát lộ. Trường hợp này, niềm tin tôn giáo bản thân của đức Phật Thích Ca đã thôi thúc Ngài phát triển lên thành niềm tin tôn giáo có thiết chế xã hội rõ ràng.
Các nhà khoa học tuy mệnh danh là những người khám phá thế giới vật chất nhưng ở họ, niềm tin tôn giáo vẫn không bị mai một mà trái lại, họ cảm nhận những khám phá của mình là manh mún, vụn vặt so với một vũ trụ đầy sáng tạo mà dường như là có bàn tay của thượng đế đã sắp xếp, hay nói khác hơn, vũ trụ phát triển là có định hướng. Mở đầu cuốn Thế giới Như tôi thấy, Albert Einstein đã viết: “Tình cảnh của những đứa con trái đất chúng ta mới kỳ lạ làm sao! Mỗi chúng ta đến đây như một chuyến viếng thăm ngắn ngủi. Ta không biết để làm gì, nhưng đôi khi ta cảm nhận được điều đó.” [15].
“Tôi tuyệt không tin vào tự do của con người theo nghĩa triết học. Mỗi người không chỉ hành động vì sự thúc ép ngoại cảnh mà còn theo đòi hỏi nội tâm.” (chúng tôi nhấn mạnh).
Einsten nói câu trên giống như các lãnh tụ tôn giáo thế giới đã từng trải nghiệm. Đức Phật Thích Ca sau khi ngồi suy tư và giác ngộ dưới cây Bồ Đề thì nội tâm của Ngài đã thôi thúc Ngài phải làm cái gì đó cho nhân loại đang chịu khổ này. Đức chúa Giê-su sau khi suy tư nhiều ngày trong sa mạc đã xuất lộ cũng chỉ vì nhân loại đang chịu khổ. Tại sao họ phải làm vậy? Có thể trả lời rằng là bởi vì nội tâm đã thôi thúc họ làm như vậy.
Trở lại với Einstein, chính nhà khoa học được tôn sùng là người vĩ đại nhất của thế kỷ 20 cũng trải nghiệm “cái bí ẩn” có thể nói là với thái độ bất khả tri: “Cái đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính. Kẻ nào không biết đến nó, không còn khả năng thảng thốt hay kinh ngạc, kẻ đó có thể coi như đã chết, đã tắt rụi lửa sống trong mắt mình.” [20] Và Einstein đã tin là có cái tôn giáo trong nghiên cứu khoa học đó là tôn giáo vũ trụ (cosmic religion), theo ông niềm tin vào một tôn giáo vũ trụ là cần thiết và ông còn chỉ tôn giáo tương lai đáp ứng được nhu cầu đó chính là đạo Phật.
“Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Nó siêu việt lên một Thượng đế cá nhân và tránh giáo điều và thần học. Bao gồm cả tự nhiên và tâm linh, nó dựa trên một cảm nhận tôn giáo, phát sinh từ sự thực nghiệm về mọi thứ, tự nhiên và tâm linh như một sự thống nhất có ý nghĩa. Đạo Phật đáp ứng mô tả này. Nếu có một tôn giáo nào phù hợp với nhu cầu khoa học hiện đại, nó phải là đạo Phật”. (1)
Niềm tin của Eistein vào một tôn giáo của vũ trụ, một tôn giáo không giáo điều và siêu việt lên Thượng đế cá nhân đã cổ vũ cho bao lớp người làm khoa học từ đó đến nay. Cá nhà khoa học đã có được một niềm tin tôn giáo ngay trong lĩnh vực hoạt động của mình khiến cho họ không còn bị cô độc giữa những phát minh và con số nữa. Một niềm tin giúp họ ngày càng tiến xa hơn trong địa hạt của mình và không cảm thấy bức xúc gì.
Nói tóm lại, theo tôi thì con người chúng ta không thể sống mà thiếu niềm tin được. Vì thiếu niềm tin, con người sẽ bị lầm lạc, bị chán nãn, bị biến thành những người máy nổi điên mà không sớm thì muộn gì thì nói cũng sẽ phá hủy thế giới của nó mà thôi. Tôi xin mượn lời của Henry Ford, người thành lập nên hang xe hơi Ford nổi tiếng của Mỹ, tuy có nhuốm màu tôn giáo phương Đông đôi chút để khép lại bài luận này:
“Tôi chấp nhận thuyết tái sanh từ năm tôi 26 tuổi. Tôn giáo không cung cấp được cái gì thích hợp. Ngay công việc cũng không làm cho tôi được thỏa mãn đầy đủ. Công việc làm sẽ là vô ích nếu chúng ta không lợi dụng được kinh nghiệm của đời này để dùng cho đời sau. Khi tôi phát hiện được thuyết tái sanh, thì thời gian không còn bị hạn chế nữa. Tôi không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa. Tôi muốn truyền lại cho những người khác sự bình thản mà một quan điểm lâu dài về cuộc sống đã đem lại cho tôi”.(2)
CHÚ THÍCH:
(1)“The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism” [Đại cương triết học Ấn Độ phần I, sách đã dẫn].
(2) Theo Quan điểm của đạo Phật về Sống-Chết, Minh Chi, NXB TP. HCM 2007.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1/ Thế giới như tôi thấy, Albert Einstein; Đinh Bá Anh, Nguyễn Vũ Hảo, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Bùi Văn Sơn Nam hiệu đính; NXB Tri Thức 2007.
2/ Các Vấn Đề Phật Học, Minh Chi, Viện Nghiên Cứu Phật Học 1995, tr.63
3/ Đại Cương Triết Học Phương Đông, phần I, Minh Chi viết; Đại học tổng hợp 1993
4/ Quan điểm của đạo Phật về Sống-Chết, Minh Chi, NXB TP. HCM 2007.[/justify]