gửi bởi VOVANTHANH » Thứ 2 23/05/11 23:37
(tt)
[justify]III. Phật giáo dùng thuyết nghiệp thay cho thuyết số mệnh
A.Định nghĩa nghiệp là gì
Nghiệp là hành động có dụng tâm, hành động mà không có dụng tâm thì không phải là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái xe không cẩn thận, cán chết người. Người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả tiền bồi thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh, anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện để người bị cán chết trả một món nợ cũ, một cái nghiệp cũ, khiến anh ta bị cán chết. Lạnh lùng mà nói, tình hình đích thực là như vậy, nếu chúng [tr.25] ta có một nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp. Trong đời này, không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có nhân duyên của nó. Có đủ nhân, đủ duyên, đúng thời, từ sự việc xảy ra tốt hay xấu, lành hay dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên được tạo ra từ trước. Nhưng đây là nghiệp chứ không phải là số mệnh.
B.Dẫn nghiệp và mãn nghiệp- Hai loại nghiệp quan trọng nhất
Nghiệp có nhiều loại, nhưng trong Phật giáo thường chú ý tới hai loại nghiệp chính là dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dắt dẫn chúng sinh đi vào một trong sáu cõi, trong số này có ba cõi thiện là cõi loài Trời, cõi Atula và cõi loài người. Và ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, súc sanh. Chúng sanh ở cõi ác khác cõi loài người rất nhiều. Mắt ta không nhìn thấy họ, nhưng không phải là họ không tồn tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên, quỷ… Trong các loại chúng sinh sống ở cõi ác, có hai loại mắt người cũng không thể nhìn thấy được là chúng sanh loài quỷ đói và chúng sanh loài địa ngục. Loài quỷ đói là chúng sanh có cấu tạo sanh lý (bụng rất to, nhưng cổ họng rất bé) cho nên luôn [tr.26] bị đói. Còn chúng sanh địa ngục thì bị khổ truyền miên, khổ ở mức loài người không thể tưởng tượng được. Còn súc sanh thì rất nhiều loại, không thể biết xuể được, nhưng chúng có đặc tính chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Loại súc sanh quen thuộc nhất là gia súc như là chó, mèo, gà, lợn, ngựa, trâu... Chúng nó sống khổ thế nào chúng ta cũng đều biết. Nhưng có nhiều điều người không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống ngu si như súc vật thì sau khi chết, chúng ta có thể tái sanh vào làm súc vật. Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường.
Cho nên ít nhất chúng ta cũng phải biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, để cho chúng ta chủ động tạo ra những nghiệp có cường độ mạnh để cho đời này cũng như ở các đời sống sau, chúng ta không bị đọa vào các cõi ác, khổ mà luôn tái sanh vào các cõi lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là giác ngộ và giải thoát.
Vì dẫn nghiệp quyết định hướng tái sanh, cho nên cũng gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng Anh [tr.27] tương đương là từ Reproductive Karma. Kamma là tiếng Pali, nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit tương đương là karma, một từ mà sách Tây phương rất hay dùng để chỉ nghiệp.
Tái sanh nghiệp hay dẫn nghiệp là những hành động tạo nghiệp có cường độ mạnh hoặc thiện hay bất thiện, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh cũng như các sự kiện chủ yếu ở đời sau của chúng sanh đó. Sau đây tôi đưa ra một vài thí dụ để minh họa trước hết là những hành động cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một chúng sanh vào một trong ba cỏi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh. Đó là các hành động cố ý giết cha, mẹ, bậc thánh A La Hán, làm chảy máu Phật và phá vỡ sự hòa hợp của Tăng chúng. Nếu phạm một trong năm nghiệp ác nói trên, thì nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm trường hợp nói trên là những trường hợp cực đoan. Còn nói chung sống buông thả, không giữ năm giới, không làm mười thiện thành thói quen, với tâm ác không biết sửa chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ làm người sống bất hạnh như chết yểu, tật nguyền hay đau ốm, bị người đời khinh rẻ…
[tr.28] C.Cường độ của nghiệp quyết định ở chỗ dụng tâm
Yếu tố gì tạo ra cường độ mạnh của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định hướng tái sanh của chúng sanh đó. Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp. Thí dụ tạo nghiệp sát sanh với tâm tham, tâm sân. Gần đây trên báo đăng vụ giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà Nội). Kẻ cướp đã giết bốn mạng người một lúc để cướp vàng, đó là vụ sát sanh vì lòng tham. Trên báo hàng ngày cũng từng đăng tin một cô gái, chỉ vì ghen tức đối với người con riêng–một con bé 5 tuổi–của chồng mình đã nhẫn tâm quẳng con bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân si và ghen tức là loại nghiệp rất mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đọa vào cõi ác không tránh khỏi.
Đối với nghiệp thiện cũng vậy, cường độ của nghiệp thiện chủ yếu ở chổ dụng tâm chứ không phải ở quy mô và hình thức của sự việc. Trong đạo Phật, có câu: Làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm danh lợi thì việc đạo biến thành việc đời, còn làm việc đời với cái tâm đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh thì việc đời cũng biến thành việc đạo.
[tr.29] Quan điểm về nghiệp trên giải phóng người nghèo hèn về nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người đời nhưng không biết xoay sở cách nào.
Trong Kinh 42 Chương có nói về hạnh tùy hỷ bố thí. Đó là hạnh chia xẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia xẻ niềm vui đó là thật lòng, không chút ganh ghét thì công đức của hạnh bố thí tùy hỷ đó cũng là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc giúp cho bao nhà được thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm… mà để bố thí tùy hỷ có cần phải có gì đâu, mà chỉ cần biết chia xẻ niềm vui của người khác mà thôi.
Đại sư Trung Hoa Trí Khải, trong bài tựa cuốn “Đồng môn chỉ quán”, kể trường hợp một Sa Di trẻ, ở cùng chùa với một vị trụ trì đã chứng quả A La Hán. Vị trụ trì xem tướng học trò biết trong vòng một tuần lễ nữa, học trò mình sẽ chết bệnh không thể tránh được, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò trên đường về nhà thấy một tổ kiến trên một bờ đê đang bị một dòng nước xoáy, thốc vào đê, đe dọa cuốn đi. Thầy Sa Di trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn cởi quần áo nhảy xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu tổ kiến. Cứu được tổ [tr.30] kiến, thầy Sa Di về nhà, và sau một tuần trở lại chùa. Vị A La Hán thấy học trò của mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa rất lấy làm lạ, hỏi cặn kẽ đầu đuôi câu chuyện cứu tổ kiến. Vị trụ trì kết luận là do thầy Sa Di phát tâm từ bi rộng lớn cứu tổ kiến nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng một tuần lễ lại vẫn sống an toàn và sống thọ trong nhiều năm nữa.
Câu chuyện trên cũng tương tự chuyện một bà già ăn mày sống trong thời Phật, muốn cúng dường Phật một ngọn đèn mà không đủ tiền mua dầu. Đi ăn xin, ky cóp mãi mới được một đồng, nhưng khi đến cửa tiệm thì chủ tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn. Nhưng vì chủ tiệm cảm lòng thành của bà già nên vẫn bán. Cuối cùng bà già cũng có một ngọn đèn để cúng dường Phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi Phật thuyết pháp mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết pháp của Phật người ta đi dập tắt tất cả những ngọn đèn ở trong nhà tịnh xá cũng như ở ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều được dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn đèn của bà già ăn mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không làm sao tắt được. Kể cả ngài Mục Kiền Liên, là học trò thần thông đệ nhất của Phật cũng bất [tr.31] lực. Được hỏi về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng dường Phật của bà già. Với tâm thành lớn như vậy, thì dù cúng dường một ngọn đèn nhỏ cũng đem lại cho bà ấy một công đức vô lượng, khiến cho Chư Thiên cũng phải cảm ứng, che chở ngọn đèn không bị dập tắt.
Trong lịch sử truyền đạo của đức Phật, cũng không hiếm những chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ, nhưng sau khi được gặp Phật, được nghe pháp và thật thà ăn năn hối lỗi, cải tà quy chánh và hành đạo, thì rồi ngay trong đời này cũng chứng được quả Thánh. Đó là trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một tên tướng cướp tàn bạo ở vương Quốc Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambapali ở Vaisali, cả hai đều xuất gia theo đạo Phật, tu hành không bao lâu cũng chứng quả A La Hán.
Nói tóm một câu, dụng tâm là yếu tố quyết định tính chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pali còn gọi là tác ý, cho nên Phật định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý theo hướng thiện hay ác, thì tức là đã tạo ra nghiệp thiện hay nghiệp ác rồi. Người bình thường không [tr.32] hiểu cơ chế vận hành của nghiệp cho nên rất hay xem thường, thậm chí ngay đối với lời nói, họ cũng nói một cách vô tâm : Lời nói bay đi, lời nói vô bằng. Không biết rằng, ngay những ý nghĩ thoáng qua đầu chúng ta còn tạo nghiệp, huống hồ chi là lời nói. Có lẽ, vì để răn dạy người ta đừng nên coi thường sự bất thiện nơi lời nói mà đạo Phật phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói dối, nói ác, nói chia rẽ, và nói lời vô nghĩa, còn sự bất thiện nơi tâm cũng chỉ có ba là tham, sân, si hay tà kiến.
D.Không được coi thường việc nhỏ
Mà cũng vì vậy, Phật luôn răn dạy chúng ta không nên coi thường thiện hay ác dù là nhỏ, cũng như một đốm lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy đống rơm cao như núi, cũng như giọt nước nhỏ mãi rồi cũng làm bình lớn tràn đầy.
Kinh Pháp Cú có bài kệ:
“Chớ chê khinh điều thiện,
Cho rằng ‘chưa đến mình’,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần.”
(Bài kệ 122. Bản dịch từ Pali : Th. Minh Châu)
Lai viết :
[tr.33] “Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước chảy từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác,
Do chất chứa dần dần.”
(Bài kệ 121, Bản dịch từ Pali: Th. Minh Châu)
Đ. Lợi ích của việc tu tập tâm
Tuy nhiên, cần chú ý là theo đạo Phật, dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay nơi thân, căn bản vẫn là ở chỗ dụng tâm, ở chỗ chúng ta tu tập tâm hằng ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần thiện, không bao giờ nghĩ ác, chỉ nghĩ toàn điều lành. Một người biết tu tập tâm như vậy, tuy rằng chưa đạt tới đích giác ngộ và giải thoát như các bậc Thánh, Phật hay A La Hán, nhưng có thể nói là đã trên con đường thẳng, dẫn tới đích giác ngộ và giải thoát tối hậu rồi. Hơn nữa trên bước đường dài dẫn tới mục đích tối hậu đó, con người thiện sẽ nhất định không bị đọa vào cõi ác.
Kinh Pháp Cú ví người như vậy như bàn tay không thương tích mà cầm thuốc độc vậy, không can gì hết.
[tr.34] Kinh Pháp Cú cũng nói người ác làm hại người hiền giống như kẻ ngu ngược gió tung bụi, bụi chỉ rơi vào mình mà không dính người:
“Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc…”
(Kệ 124. Kinh đã dẫn, tr 75)
“Hại người không ác tâm,
Như thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.”
(Kệ 125. Kinh đã dẫn, tr 75)
Nói tóm một câu, quyết định tính chất và cường độ của nghiệp là cái tâm của mình, là ở trong lòng mình.
“Thiện căn bởi tại lòng ta,
Tu Phật, trước hết và chủ yếu là tu tâm”
Vì không phải chỉ vì “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, như thi sĩ Nguyễn Du đã nhắn nhủ chúng ta, mà vì Đức Phật cũng đã từng khuyến cáo chúng ta :
“Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
[tr.35] Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân.”
(Kệ 42. Kinh Pháp Cú)
“Điều mẹ, cha, bà, con
Không có thể làm được,
Tâm hướng thiện làm được,
Làm được tốt đẹp hơn.”
(Kệ 43. Kinh Pháp Cú)
E.Vấn đề cộng nghiệp
Nghiệp là sức mạnh lớn, khi nó là cộng nghiệp của một số đông người, vì không phải là một mà là số đông người tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả loài người, cả một quốc gia, một dân tộc hay một địa phương.
Cộng nghiệp của cả một dân tộc đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân, khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh như Phật mới có thể hiểu hết ngọn ngành, chi tiết.
Trong kinh chép lời Phật: “Với thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn của loài người, Ta thấy các chúng sanh chết và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất sắc và người bần tiện, mỗi người đều theo [tr.36] nghiệp của mình tạo ra mà có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh.”
(chuyển từ bản Tiếng Anh: “The Tibetan Book Of Living And Dying” Sogyal Rinpoche, tr 92)
Chúng ta không có được thiên nhãn thanh tịnh, để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả những cơ chế vận hạnh phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu chúng ta cũng biết được đại khái nhưng cũng rất là đúng đắn:
“Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.”
Đó là sự minh triết của nhân dân Việt Nam, mà tổ tiên, cha ông đã tin theo đạo Phật gần hai mươi thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng và phức tạp như thuyết nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi, mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy ra cho một người, một gia đình hay thậm chí cả một vùng chúng ta buột mồm nói :Tội nghiệp. Đó là tội của nghiệp, nghiệp báo của từng người và nghiệp báo chung, gọi là cộng nghiệp của số đông…
Nghiệp chính là quy luật nhân quả tác động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi quả chín mùi và xảy ra, thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà là [tr.37] kết quả hợp thành của những nhân duyên đã được tạo ra và nay chín mùi.
Nhưng Đạo Phật không nói một cách máy móc: nhân nào quả ấy. Vì sao? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo nghiệp bằng ý nghĩ, lời và thân vận động. Nghiệp này nối tiếp nghiệp kia, nghiệp sau tác động trở lại nghiệp trước.v..v…
Chính vì vậy mà đạo Phật không nói số phận hay số mệnh, mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là ranh giới phân biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác, kể cả với Ấn Độ giáo, khá gần gũi với đạo Phật, vì Ấn Độ giáo cũng nói nghiệp (karma).
Dẫn nghiệp hay còn gọi là năng sanh nghiệp chỉ là những loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người. Chúng ta biết chắc là trong đời trước chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh nghiệp) khiến cho chúng ta có được thân phận người, nhưng giữa chúng ta ở đây thôi, trong phạm vi cái phòng này đã có là bao nhiêu sai biệt như già và trẻ, khoẻ và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu và mỗi người chúng ta đều là thành viên của những gia đình khác nhau, với những cảnh ngộ khác nhau. Do vậy mà ngoài dẫn [tr.38] nghiệp quyết định thân phận là người của chúng ta, chúng ta còn tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là mãn nghiệp (sách tiếng Anh dịch là Supportive Karma), cũng có sách khác dịch là năng trì nghiệp.
F.Khái niệm mãn nghiệp
Mãn nghiệp hay năng trì nghiệp giải thích vì sao cũng là một thân phận người mà người có hạnh phúc, người bất hạnh, người sang, kẻ nghèo hèn, người có uy tín nói ai cũng theo, trái lại có người nói rất giỏi nhưng không ai tin, người đẹp kẻ lại xấu xí, cô gái đẹp lại lấy phải ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại lấy được người vợ đẹp sánh ngang Hằng Nga tái thế.v.v…Sao lại có những chuyện như vậy? Tất cả những chuyện sai biệt như vậy đều là quả báo của mãn nghiệp hay năng trì nghiệp.
Một câu hỏi: Loại mãn nghiệp này là bất khả kháng hay là có thể chuyển được? Xin trả lời: Thuyết nghiệp của Phật giáo là bất định nghiệp, là nghiệp có thể chuyển được. Đã có bao nhiêu người sanh ra với sức khoẻ rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực sĩ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi 80. Triết gia Đức nổi tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng [tr.39] nhờ sinh hoạt, làm việc rất điều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ.v.v…
G.Khái niêm năng tiêu nghiệp
Vì vậy mà Phật giáo đưa ra khái niêm gọi là năng tiêu nghiệp, mà sách Anh ngữ có khi dịch là countereractive karma hay là impeding karma. Loại nghiệp này tùy thuộc vào tình hình mà có thể tốt hay xấu.
Có thể đưa ra những ví dụ sau đây để minh họa: Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói theo danh từ khoa học hiện nay là có gen thông minh. Nhưng người đó lại sinh ra trong một gia đình giầu có, được cha mẹ nuông chiều cho nên không chịu học hành, chỉ suốt ngày chơi bời khiến cho tính chất thông minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi và cuối cùng anh ta trở thành một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh ta tạo ra đều thuộc loại năng tiêu nghiệp xấu và tiêu cực, hủy hoại bẩm tính thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải là ngẫu nhiên mà chính do anh ta nuôi dưỡng, hun đúc trong một đời trước.
Còn những ví dụ minh chứng các loại năng tiêu nghiệp thì rất nhiều. Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện [tr.40] hay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều là chuyện người thật việc thật.
H.Dẫn nghiệp có thể hủy được không? Năng hủy nghiệp
Nhưng có người lại hỏi: Ừ mãn nghiệp có cường độ yếu nên có thể chuyển được, chúng tôi đồng ý, nhưng còn dẫn nghiệp có thể chuyển được không?
Dẫn nghiệp cũng có thể chuyển được trong những trường hợp sau đây:
Đúng là sau khi đã sanh ra là người, có thân phận người, thì không thể chuyển được thân phận người thành một thân phận không phải người. Thí dụ như các Đạo gia mơ tưởng uống thuốc trường sanh bất lão và bất tử, trở thành Thần thành Tiên ngay trong cõi đời này.
Tôi nghĩ rằng bàn những chuyện như vậy là vô ích, vì nếu có một người như Từ Thức chăng thì cũng chỉ là một người. Nên miễn bàn là hơn.
Nhưng đạo Phật có khái niệm năng hủy nghiệp để giải thích những trường hợp, tuy có người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của tái sanh nghiệp vẫn còn nhưng vì những người này trong đời sống trước hay thậm chí trong đời sống này có tạo ra [tr.41] những nghiệp cực mạnh, có khả năng tiêu hủy thân phận người của họ, thì họ vẫn có thể mất thân phận người như thường. Đó là những trường hợp chết đột tử hay chết bất đắc kỳ tử, như là trong các trường hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay xe cộ. Người bình thường gọi đó là một trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là số mệnh. Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi là năng hủy nghiệp, nó tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang sống bình thường. Người đó trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay cả trong đời sống này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh, đủ sức tiêu hủy một dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận người. Sách Phật thường ví dụ tác động của loại nghiệp này như một cơn gió thổi tắt ngọn đèn, tuy rằng ngọn đèn đó còn thừa dầu và bấc.
I. Kết luận: người là chủ nhân của nghiệp
Nói tóm lại một câu, có thể dẫn chứng lời Phật, trong Kinh “Tiểu nghiệp phân biệt” (Trung Bộ III): “Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…”. Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong Kiều
[tr.42] “Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Xin đừng trách lẫn trời gần, trời xa.”
Chính chúng ta chứ không một Thần linh nào khác hết quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng thiện thì chúng ta tạo ra nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giải dị, không có gì khó hiểu, không cần phải mượn tới sức mạnh của Thần linh hay sức mạnh mù quáng của số phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những khoa học và công bằng, mà nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con người. Nó thúc đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người. Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt đẹp cho xã hội và đất nước chúng ta, trong thiên niên kỷ mới sắp đến này.
Quá khứ đã qua rồi, tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức [tr.43] sống trong hiện tại từng giờ từng phút nghĩ lành, nói lành, làm lành. Đó chính là nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong thực hành, trong cuộc sống.
Triết gia Mỹ William James hầu như hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, khi nói câu:
“Chúng ta đang dệt đời chúng ta bằng một sợi chỉ không thể tháo gỡ ra được”
(Nous tissons notre vie d’un filqui ne se défera pas)
Câu nói của Nguyễn Du và William James sẽ hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Xin đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
…Nếu thêm cái đuôi: Tuy nghiệp đã mang vào thân rồi nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năng sửa lỗi lầm, từ nay tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm, ý luôn luôn trong sạch, hướng thiện. Với câu của William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta với sợi chỉ, không phải không tháo ra được, mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại được, nếu…(như đoạn trên thêm vào câu của Nguyễn Du).
[tr.44] Và theo lời khuyên của hai vị, chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn bằng nghiệp lành, nghiệp thiện, trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hàng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hằng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong cả đời này và đời sau.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."