HAI SẮC HOA TI-GÔN-T.T.KH
Bài thơ đã từng gây xúc động trong khoảng thời gian dài, gây tranh cãi trên thi đàn Việt Nam, và sẽ còn tiếp tục là niềm xúc động cả mai sau nữa. Bài thơ bắt nguồn từ những câu truyện ly kỳ, và sau này còn tiếp tục được thêu dệt.
Xin trân trọng đăng lại ở đây để các bạn cùng thưởng thức.
HAI SẮC HOA TI-GÔN
T.T.K.H.Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu thương
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng : "Hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi".
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp : "Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng nghĩ suy".
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trần gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo với chồng tôi
Từng mùa thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây trắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi ! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng...Nguồn:
http://www.saga.vn/Vui_Truyen/tho_van/1337.sagaVề tác giả bài thơ "Hai sắc hoa ti-gôn"Cái tên T.T.Kh đến nay vẫn là một bí ẩn đối với các nhà nghiên cứu văn học Việt nam cũng như tất cả độc giả yêu thích bài Hai sắc hoa ti gôn. Những ai đã từng một lần (chỉ cần một lần thôi) đọc bài thơ Hai sắc hoa ti gôn hẳn không thể quên được hình ảnh hoa ti gôn như quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu cùng với người con gái đáng thương và mối tình ngang trái của nàng. Chính mối tình nguyên sơ của "cái thủa ban đầu ngơ ngác ấy" cộng với dư vị sâu lắng, thấu suốt của thi phẩm và những bộc bạch đau đớn, giằng xé trong tình duyên đã làm cho bài thơ còn sống mãi trong tâm trí người đọc. Đã hơn nủa thế kỷ (chính xác là 68 năm) kể từ khi bài thơ ra đời, đã có bao nhiêu là giả thuyết, suy đoán (tất nhiên có cả những điều bịa đặt nữa) nhưng chưa bao giờ có câu trả lời dứt khoát. Có lẽ đó cũng là lý do để Hai sắc hoa ti gôn trở nên nổi tiếng hơn.
Vào khoảng 6/1937 (có tài liệu viết là 7/1937) "Tiểu Thuyết Thứ Bảy" đăng truyện ngắn Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu (xem truyện ngắn này ở cuối bài viết). Câu chuyện kể về một mối tình của một chàng nghệ sĩ và một thiếu nữ, song đã sớm phải chia ly do hoàn cảnh ngang trái nhưng một phần, do sự yếu đuối của người đàn bà.
Sau đấy không lâu, trên "Tiểu Thuyết Thứ Bảy" (số 179, 30/10/1937) xuất hiện phải thơ Hai sắc hoa ti gôn của thi sĩ bí ẩn T.T.Kh. Bài thơ được gói kỹ trong một phong bì dán kín do một thiếu nữ khoảng 20 tuổi, dáng người nhỏ bé, thuỳ mị, nét mặt buồn mang đến toà soạn. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng người thiếu nữ này xuất hiện. Một thời gian sau, toà soạn lại nhận được 3 bài thơ nữa cùng ký tên T.T.Kh qua đường Bưu điện. Từ đó trở đi không ai thấy thơ của T.T.Kh nữa. Như vậy, thi sĩ T.T.Kh có tất cả 4 bài thơ, đó là:Hai sắc hoa ti gôn; Bài thơ thứ nhất; Bài thơ đan áo và Bài thơ cuối cùng, trong đó Hai sắc hoa ti gôn là nổi tiếng nhất (cả 4 bài thơ đều có ở cuối bài viết này).
Đọc truyện Hoa ti gôn và bài thơ Hai sắc hoa ti gôn ta dễ dàng nhận ra có nhiều hình ảnh và chi tiết giống nhau. Có thể nói, câu chuyện Hoa ti gôn của Thanh Châu đã được T.T.Kh viết lại (đúng hơn là tái hiện lại) bằng thơ (các bạn hãy đọc và đối chiếu nhé!). Mặc dù cốt truyện không trùng khớp nhưng vẫn không quá khi nói câu chuyện và bài thơ: tuy hai mà một (are the same thing). Chính vì vậy mới có giả thuyết sau đây:
Năm 1994, nhà văn Thế Phong cùng với nhà thơ Trần Nhật Thu, ký tên Thế Nhật cho ra đời cuốn sách "T.T.Kh - Nàng là ai?" đã cho rằng, T.T.Kh tên thật là Trần Thị Vân Chung sinh 25/8/1919 tại Thanh Hoá. Năm 15 tuổi, T.T.Kh nhận lời lấy luật sư Lê Ngọc Chấn nhưng trước đó nàng đã yêu văn sĩ Thanh Châu (yêu hơi sớm? ). Ba năm sau ngày người yêu đi lấy chồng, Thanh Châu đã viết chuyện Hoa ti gôn gửi đăng "Tiểu Thuyết Thứ Bảy". Câu chuyện đã khơi lại mối tình xưa (ngày trước chắc là hai người đã có hẹn ước dưới giàn ti gôn) và thế là T.T.Kh viết bài thơ Hai sắc hoa ti gôn để giải toả nỗi niềm.
Năm 1954, sau hiệp định Genève, Thanh Châu về Hà nội còn T.T.Kh thì theo chồng di cư vào miền Nam. Ở Sài Gòn, T.T.Kh sinh hoạt trong nhóm Quỳnh Dao và lấy bút danh là Vân Nương. Sau 1975, luật sư Chấn phải đi cải tạo và trong khoảng thời gian này, nhà văn Thanh Châu từ Hà nội vào Sài Gòn lặn lội tìm lại "người con gái vườn Thanh" thủa trước (xem trong Bài thơ thứ nhất), hai người đã gặp nhau trong một cuộc gặp gỡ rơi lệ nhưng không thể thay đổi được gì. Sau khi luật sư Chấn mất, thi sĩ Vân Nương đem con cái qua sống bên Pháp. Ở đó, bà vẫn viết báo, làm thơ có điều không dùng bút danh T.T.Kh nữa. Theo Thế Nhật, chữ T.T.Kh là viết tắt của: Trần (Trần Thị Vân Chung) + Thanh (Thanh Châu) + Khóc.
Nghĩa là Vân Chung và Thanh Châu cùng khóc "giấc mộng ngày những ngày hoa" như thơ bà viết thủa còn trẻ.
Giả thuyết này có vẻ có lý bởi, thứ nhất, như trên đã nói, bố cục, hình ảnh, chi tiết của truyện và thơ có nhiều chỗ rất giống nhau. Thứ hai, chính trong Bài thơ cuối cùng (đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy 10/1938) T.T.Kh đã:
Trách ai mang cánh ti gôn ấy.
Mà viết tình em được ích gì
........
Cho khắp người đời thóc mách xem
Là giết đời nhau đấy , biết không?
Những câu này hình như nhằm vào văn sĩ Thanh Châu (việc Thanh Châu viết chuyện làm cho bao nhiêu lời đồn đại về T.T.Kh, nhiều người nhận T.T.Kh là người yêu như Nguyễn Bính, Thâm Tâm, chẳng hạn). Tuy nhiên, việc người ta giả thiết T.T.Kh là Vân Chung + Thanh Châu + Khóc, xem ra không được tự nhiên cho lắm (em thì cho đây là một sự gán ghép tuỳ tiện). Sau này, từ bên Pháp, chính Vân Nương đã phủ định hoàn toàn câu chuyện trên, còn Thanh Châu thì vẫn lặng im chẳng nói gì.
Giả thuyết này chỉ mới xuất hiện gần đây thôi, còn trước đây, người ta cho T.T.Kh là người yêu của Thâm Tâm, Nguyễn Bính cơ. Theo người ta kể lại, chính Thâm Tâm nói rằng T.T.Kh tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Sau khi cô Khánh đi lấy chồng, Thâm Tâm bị thất tình, lại bị bạn bè ( như Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can,...) chế nhạo nên đau khổ mà viết ra 4 bài thơ ký tên là T.T.Kh (có ý ghép tên 2 người: Thâm Tâm + Khánh). Sau đó, Thâm Tâm cho biết cô Khánh rất giận vì nghĩ Thâm Tâm định phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Thế là Thâm Tâm viết thêm bài thơ "Gửi T.T.Kh" và bài "Dang dở" với lời đề tặng T.T.Kh. Người ta cũng cho biết, thiếu phụ mang thơ đến toà soạn là em họ của Thâm Tâm. Nhưng năm 1974, nhà văn Thế Phong lại cho rằng chính cô Khánh đã sáng tác 4 bài thơ chứ không phải Thâm Tâm (chữ T.T.Kh là viết tắt của Trần Thị Khánh). Và sau này, năm 1994, chính Thế Phong lại bác bỏ giả thuyết này trong cuốn sách "T.T.Kh – Nàng là ai?" viết chung với Trần Nhật Thu mà em đã viết ở trên.
Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Bính cũng nhận T.T.Kh là người yêu của mình (T.T.Kh là viết tắt của Tôn Thị Khuê hay Thái Thị Khương gì đấy – các thi sĩ vốn đa tình mà). Trong bài thơ "Cô gái vườn Thanh" có lời đề tặng T.T.Kh, tác giả bài "Chân quê" mơ màng: "Phải chăng mình có nên ngờ, rằng người năm ấy bây giờ là đây ?".
Rõ ràng là câu trả lời cuối cùng (cho câu hỏi "T.T.Kh – nàng là ai?") đến nay vẫn còn để ngỏ. Có một điều lạ là, tại sao Thâm Tâm và Nguyễn Bính (và không biết còn ai nữa) đều nhận T.T.Kh là người yêu của mình? Phải chăng là những người này muốn "giây máu ăn phần" (kiểu như Thấy người sang bắt quàng làm họ ấy mà:laughing: )? Những người nổi tiếng như Nguyễn Bính thì đâu cần phải như vậy.. Còn văn sĩ Thanh Châu, tại sao ông lại lặng im không nói gì nhưng lại bác bỏ "giai thoại Thâm Tâm, Nguyễn Bính" (chính Thanh Châu đã trách Thâm Tâm và Nguyễn Bính đã đặt ra những chuyện không có thật với mục đích không minh bạch)? Hay T.T.Kh chỉ là một nhân vật tưởng tượng của Thanh Châu nhằm thi vị hoá một mối tình không có thực ? Tất cả vẫn là "nghi án văn học".
Về hoa ti gôn (antigone, hai sắc hoa ti gôn: two colours of Antigone), đó là một loại hoa dây đẹp, không có mùi thơm. Hoa có hai màu, màu trắng và màu hồng. Hoa có hình dáng như quả tim vỡ làm mấy mảnh, ở miền Nam gọi là hoa nho vì lá của nó giống lá nho. Trong bài thơ Hai sắc hoa ti gôn (cũng như trong truyện Hoa ti gôn) tác giả ví dáng hoa ti gôn là trái tim, màu trắng là màu trinh bạch, ngây thơ của người con gái mới lớn và màu hồng là màu máu thắm pha, ý nói đến những đau khổ trong tình duyên khi con tim nàng tan vỡ.
Xin nhắc thêm một chi tiết nhỏ, trong thần thoại Hy Lạp (Greek mythology), Antigone là tên của một người con gái. Cô là con gái của Oedipus, người đã vô tình giết cha và sau đấy lấy mẹ mình (who unwittingly killed his father and married his mother). Như vậy Antigone vừa là con và cũng vừa là em gái của Oedipus.
Truyện ngắn: HOA TI GÔN - Thanh Châu
"... Hoa leo ti-gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người...". Khải Hưng (Gánh hàng hoa).
Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, hoạ sư Lê cũng không quên mua một bó hoa "Ti-gôn". Ðó là thói quen của hoạ sư mà không một người bạn hay người bạn học trò thân nào là không biết rõ. Ðến mùa hoa "Ti-gôn" nở nhiều nhất, trong nhà hoạ sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tần mần ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của hoạ sư Lê là đúng : "Hoa Ti-gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuộm máu đào". Rồi người ta tự hỏi thầm : "Tại sao hoạ sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một này đã rụng rồi ? Chắc lại có điều tâm sự chi đây..."
Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là hoạ sĩ nghèo mới ở trường ra - một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh đẹp. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua. Ðến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi. Chất hãm xe, nghển cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nữa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khoẻ mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vừng trán, cảnh "con gái hái hoa" ấy như một bức tranh linh động, khiến người hoạ sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẽ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Ðến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng. Nhưng từ hôm đó, hôm nào hoạ sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà. Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi, bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn. Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong an-bom để ghi giữ lại, rồi dần dần cũng quên đi. ..
Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao. Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên : "Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp". Hoạ sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính, Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã hoạ sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp. Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của toà lãnh sự Pháp, hoạ sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. ở đâu ? Chất giật mình. Có thể nào ? Nhưng quên làm sao khuôn mặt ấy, đôi môi ấy ? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ : thiếu phụ là vợ một viên chức trong toà lãnh sự. Trong khi nhảy với thiếu phụ trong một bản "tăng gô", Lê Chất đột nhiên hỏi :
- Bà vẫn thích hái hoa "ti-gôn" chứ ?
Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên :
- Ông nói gì... tôi không hiểu.
- Có lẽ bà đã quên cả Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa...
Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh :
- Có phải ông là cái anh chàng hoạ sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không ?
Nàng nói tiếp :
- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau...
Mai Hạnh - tên thiếu phụ - rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một hoạ sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được ? Hạnh thường đến chỗ hoạ sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung. Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo trên đỉnh núi, Lê Chất hỏi :
- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư ? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không ?
Mai Hạnh, giọng run run, tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại :
- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.
Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.
Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại, sau cùng cũng nhận lời.
Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt song mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh :
"Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Ðừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Ðến phút cuối cùng em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai... Em thấy rằng : nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa ? Em là một đứa hèn ! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy ! Nhưng còn em thì thật chẳng bao giờ, chẳng bao giờ ! Vì em biết sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh...".
Trong thư, một dây hoa "ti-gôn" nhỏ ép rơi ra : những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào. Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch Phù Tang có một mình.
Bốn năm sau, một hôm hoạ sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết. Hoạ sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt.. hay vì sầu muộn...
Ngày nay, hoạ sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa "ti-gôn" nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế cho hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.
__________________
Nguồn:
http://svgtvt.net/forum/showthread.php?t=6533