(HVCH: PHẠM THỊ LIÊN
MSHV: 0305030625)
Mỗi dân tộc đều có tiếng nói riêng của mình. Để ghi lại tiếng nói ấy thì chữ viết ra đời. Do nhu cầu của cuộc sống và do cộng đồng dân cư ngày càng được mở rộng nên việc gọi tên cho sự vật, sự việc ngày càng có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong việc đặt tên người. Ý nghĩa ban đầu của họ tên chỉ là “biệt hiệu” của một người, giúp cho việc xưng hô dễ dàng hơn, có tác dụng phân biệt người này với người khác.
Họ tên cũng phản ánh văn hóa và tâm lý của con người . Do là biệt hiệu riêng của mỗi người trong xã hội nên nó có quan hệ chặt chẽ với lịch sử, văn hóa, địa điểm, tư tưởng và phong tục tập quán.
Yêu cầu và nguyên tắc đặt tên, trải qua hang ngàn năm văn hóa và sự giao thoa với văn hóa nước ngoài, hiện gần như đã trở thành tính quy định từ ý hay âm của từ đến thói quen hay việc tránh trùng tên đều có đặc trưng riêng, đó cũng có thể coi như những điều cấm kỵ khi đặt tên.
Khi đặt tên chúng ta cũng phải tuân theo một số quy tắc: ngắn gọn, tránh trùng, biệt giới và thẩm mỹ (Trần Ngọc Them). Trong những nguyên tắc này ta thấy nguyên tắc tránh trùng lắp trước đây là một điều cấm kỵ. Theo phong tục cổ truyền trước đây, tên chính của người kinh không được trùng với tên thần thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia tộc thậm chí với những người thuộc thế hệ trước là bạn bè của gia đình hay những người cùng làng. Để phân biệt con gái và con trai người ta thường dung các tên đệm như “thị” đối với nữ và “văn, hữu, cao…” đối với nam. Cho đến nay những quy tắc này vẫn còn được duy trì nhưng không quá cứng nhắc và hầu hết là ở những vùng nông thôn là còn giữ được nguyên tắc này. Bây giờ người ta có thể đặt tên chính của các con giống nhau chỉ thay đổi tên đệm. Ví dụ: Tố Quyên, Bảo Quyên, Lệ Quyên là tên của ba chị em….
Người Việt Nam quan niệm tên chính là một bộ phận gắn chặt với người mang nó. Tục ngữ có câu “coi mặt, đặt tên”. Cho nên trước khi đặt tên, người ta chọn lựa rất kỹ và căn cứ vào đặc điểm, phái tính của đứa trẻ, hoàn cảnh gia đình, dòng họ, quê hương, xã hội, ước vọng của cha mẹ…….mà chọn, chứ không đặt tên tùy tiện. Ví dụ: Hải Nam là cách ghép quê hương của bố và mẹ (Hải Phòng và Hà Nam), Phú Quý, Giàu, Sang là tên mong muốn con sau này có một cuộc sống giàu có……….hay trong thời kỳ chiến tranh với mong muốn đất nước được hòa bình người ta thường đặt tên là Hòa, Bình, Thủy, Chung, Nam, Bắc, Thống, Nhất………thậm chí người ta còn đặt theo vần, theo năm cho dễ nhớ. Ví dụ: Lê, Liên, Liền, Long là tên của bốn chị em.
Trước đây người Việt Nam còn có suy nghĩ không nên đặt tên đẹp cho con vì nếu đặt tên đẹp thì dễ bị ma bắt hoặc dễ chết yểu, cho nên họ thường đặt tên xấu. Chẳng hạn như: Bướm, Nón, Củi, Đón, Xu………..
Ngày nay khi văn hóa ngày càng được hội nhập nhiều hơn thì nhu cầu thẩm mỹ của con người cũng được nâng cao hơn, cho nên những tư tưởng, phong tục đặt tên trước đây được lưu giữ rất ít (nếu có thì chỉ ở các vùng nông thôn). Hầu hết cách đặt tên bây giờ là phải làm sao đặt cho con mình một cái tên thật hay nghe thật kêu vừa lại thể hiện được mong muốn của họ chẳng hạn như cách đặt tên lấy họ tên cha mẹ ghép với tên cha mẹ ví dụ: mẹ tên Nguyễn Thị Thu Hiền, bố tên Nguyễn Văn Tiến, con tên Nguyễn Tiến An tên con Nguyễn Phạm Gia Thiên ( tên mẹ Phạm Thị Hiền + tên bố Nguyễn Hữu Thía ) hay tên của thần tượng hay người mà họ ngưỡng mộ (cách đặt tên mong muốn sự giàu sang hạnh phúc vẫn còn được dùng)………Ví dụ như Mỹ Tâm, Huy Quân, Hồng Nhung, Chấn Huy……..trước đây để phân biệt con gái và con trai người ta thường dung các tên đệm như “thị” đối với nữ và “văn, hữu, cao…” đối với nam nhưng bây giờ thì hầu như không có những tên đệm như vậy.
Nói tóm lại, tên gọi là có nguyên do của nó, và trong đó không thể không có yếu tố văn hóa. Có điều là yếu tố văn hóa ở đây (nhất là trong cách đặt tên hiện nay) đã được nhìn nhận theo một hướng phát triển mới.