[justify]Hạnh phúc là được sẻ chia và đón nhận... Thật vui vì không chỉ riêng mình tôi mới biết "quá yêu" một Người thơ rất "Đaghextan" ấy! Gửi vào đây, những xúc cảm như thế của bạn bè bốn phương... Một bài viết về Raxun Gamzatov- nhà thơ nhân dân Đaghextan...
Nói về Расул Гамзатов (Raxun Gamzatov) có nghĩa là nói về Đaghextan, xứ sở trên vùng núi Capcadơ, nơi có 36 dân tộc đang chung sống, trong đó có dân tộc Avar.
Расул Гамзатович Гамзатов sinh ngày 8/9/1923 tại ngôi làng Avar thuộc vùng Tsada, phía Đông Bắc Capcadơ. Cha của ông, nhà thơ nhân dân Gamzar Tsada, người kế thừa nghệ thuật hát rong truyền thống của ông cha mà cho đến nay vẫn còn thịnh hành tại các vùng núi.
Những thi sĩ hát rong khi ấy rất được đề cao và trọng vọng. Khi Makhmud, nhà thơ nổi tiếng của thế hệ trước, cất tiếng hát tại một nơi hội họp đông người, vừa kéo căng dây đàn pandura làm nhạc đệm thì dường như từ những em bé đến những người già đều nín thở và hồi hộp lắng nghe: thậm chí người ta còn có thể nghe thấy cả tiếng vỗ cánh của một con ong.
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi những người thầy giáo Xôviết đầu tiên đặt chân tới ngôi làng Avar, những người phụ nữ thường ngồi quay lưng lại khi các thầy giáo giảng bài và họ không bao giờ để lộ khuôn mặt của mình trước người lạ. Nhưng khi một nhà thơ hát rong đi ngang qua cùng với những bài tình ca thì họ lại ngước nhìn anh với vẻ ngưỡng mộ pha chút sùng bái và thậm chí còn vén cả mạng che mặt lên.
Chàng trai trẻ Raxun, vốn không thể chịu đựng được bất kỳ sự ngắt lời nào, có thể ngồi hàng giờ để nghe cho đến hết những câu chuyện của người Avar, những huyền thoại và truyện ngụ ngôn mà người cha kể cho nghe. Ông nhớ lại: “Khi tôi còn nhỏ xíu, cha tôi thường bọc tôi trong tấm áo choàng bằng da cừu của ông và đọc những bài thơ của ông cho tôi nghe, vì thế tôi đã học thuộc lòng những bài thơ ấy ngay cả trước khi biết cưỡi ngựa hay buộc thắt lưng”.
Từ khung cửa sổ nhỏ bé trong ngôi nhà mái bằng bằng đá vững chắc của mình, Raxun có thể nhìn thấy cánh đồng xanh bao la như một tấm khăn trải bàn trùm lên khắp ngôi làng và ở phía trên nhô ra những tảng đá lớn.
Những con đường ngoằn ngoèo ngập nước bẩn, những hang động há miệng rộng như hàm của những con thú hoang.
Những đỉnh núi nối nhau liên tiếp uốn cong và ghồ ghề như tấm lưng con lạc đà vậy.
Khi còn nhỏ, Raxun thường đi chăn con ngựa của nhà hàng xóm trong 3 ngày với phần thưởng là được kể cho nghe 1 câu chuyện nào đó. Cậu bé Raxun mất nửa ngày để trèo lên núi nhập bọn với những chú bé chăn cừu và đi bộ mất nửa ngày nữa để quay trở về, chỉ để được nghe có 1 bài thơ!
Năm học lớp 2, Raxun đã đi bộ 12 dặm đường để tới gặp một ông già, bạn của người cha mình, một người thuộc rất nhiều bài hát, bài thơ và những câu chuyện huyền thoại. Ông lão đã hát và kể cho cậu bé Raxun nghe trong 4 ngày liền, suốt từ sáng đến tối. Raxun viết lại những gì đã nghe và sung sướng trở về nhà với chiếc túi đựng đầy những bài thơ.
Khi viết những vần thơ đầu tiên của mình, Raxun mới 11 tuổi. Lúc đó, cậu bé nằm giấu mình trên ban công của ngôi nhà. Bài thơ đầu tiên của cậu kể về những cậu bé miền núi đã chạy như bay từ trên núi xuống khoảng đất trống, nơi có một chiếc máy bay đã hạ cánh xuống đó lần đầu tiên vào năm 1934.
Cha của Raxun là người thầy đầu tiên của ông trong nghệ thuật thơ ca. “Về những bài thơ đầu tiên của tôi, cha tôi nói rằng, nếu con chịu khó lục lọi trong đống tro tàn thì rồi thế nào con cũng sẽ tìm thấy một cục than hồng đang rực cháy”- Raxun hồi tưởng lại. Nhan đề của tập thơ đầu tiên của ông là “Love Inspired and Fiery Wrath” (không biết dịch sang tiếng Việt như thế nào cho đúng! ). Ông tỏ ra vui mừng khôn xiết khi những cô gái ở miền núi đã đọc tập thơ đó cho ông nghe và cho đến giờ, ông vẫn không thể quên được nỗi đau đớn của mình khi nhìn một người chăn cứu dùng giấy để cuốn một điếu thuốc lá. Đó là vào năm 1943.
Năm 1945, cùng với vài tập thơ riêng ở Avar cặp dưới cánh tay và một ít tiền trong túi, ông đã tới Matxcơva để vào Viện nghiên cứu Văn học Gorky. Ở đó, trong nhóm các nhà thơ trẻ và dưới sự dìu dắt của các nhà văn kỳ cựu, ông đã nghiên cứu nền văn học Nga và văn học thế giới, đồng thời sáng tác thơ ca. Lần lượt, ông đã say mê các nhà thơ Blok, Mayakovsky, Êxênhin, Pastenak, Tsvetayeva, Bagritsky, nhà thơ người Avar Makhmud và nhà thơ Đức Henric Heine. Nhưng Puskin và Lermontov mới là tình yêu vĩnh hằng của ông.
Trong hơn 50 năm, Raxun Gamzatov là một trong những nhà thơ Xôviết viết nhiều nhất. Bằng ngòi bút của mình, ông đã cho ra đời những bài thơ tình lãng mạn, những bài thơ tự thuật dài, những bản ballad, những vần thơ trào phúng và những bài thơ 8 câu có tính triết lý sâu xa và ông đã có được hàng triệu độc giả trung thành.
Gia đình Raxun sống tại Makhachkala, thủ phủ của Đaghextan trên bờ biển Caspian. Vợ ông là bà Patimat (mất năm 2000), ông có 3 cô con gái là Zarema, Patimat và Salikhat, cùng 4 đứa cháu. Ngôi nhà của ông luôn mở cửa cho tất cả mọi người. Ngôi nhà của ông luôn mở cửa cho tất cả mọi người. Với niềm tự hào, ông giới thiệu với bạn bè bộ sưu tập những thanh kiếm sáng bóng, những tấm áo choàng khi cưỡi ngựa, những hũ rượu và bình gốm màu đất vốn là sản phẩm nổi tiếng của vùng Đaghextan. Về mảnh đất nơi ông đã sinh ra, về những người dân và những nhà thơ của mảnh đất ấy, ông đã vẽ nên một bức chân dung hấp dẫn, gần gũi và giàu tính nhân văn trong tuyển tập văn xuôi hồi ký “Đaghextan của tôi” (Мой Дагестан).
Ông đã giành được giải thưởng Lênin cho những đóng góp về thơ ca và vinh dự nhận danh hiệu “nhà thơ của nhân dân” Đaghextan, Raxun Gamzatov là một nhân vật nổi tiếng, chủ tịch Hội nhà văn Đaghextan. Ông đã đi nhiều nơi trên thế giới, ở châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Ông đã tới thăm nhiều nguyên thuỷ quốc gia nổi tiếng, các vị vua chúa, các tổng thống, nhà văn và hoạ sĩ. Ngôi nhà của ông cũng được nhiều vị khách nổi tiếng thế giới tới thăm.
Raxun Gamzatov đã sáng tác bằng tiếng Avar địa phương, một ngôn ngữ chỉ có hơn 500.000 người sử dụng. Những người Avar cùng với người Darghin, Lezghin và Kumyk là những nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất trong tổng số 2 triệu cư dân của Đaghextan, nơi người ta nói 36 thứ tiếng khác nhau. Truyền thuyết xưa kể lại, có người kỵ sĩ cưỡi ngựa khắp thế giới, phân phát các loại ngôn ngữ và đã ném cả một túi chứa đầy ngôn ngữ vào các hẻm núi rồi nói với người dân: “Các người hãy chọn lấy cho mình!”.
Do vậy, vấn đề dịch thuật đã trở thành một rào cản quen thuộc đối với người dân Đaghextan, ở đó những cuốn sách được viết và xuất bản bằng 9 loại ngôn ngữ khác nhau.
Raxun Gamzatov đã có may mắn khi gặp được những dịch giả tiếng Nga của mình là Naum Grebnev và Yakov Kozlovsky. Nhiều bản dịch của 2 dịch giả này đã trở thành kinh điển trong nền thi ca Nga. Đến mức mà ngay bản thân Raxun, khi đọc những bài thơ của mình trước công chúng bằng giọng Avar với nhịp điệu mạnh mẽ, vẫn thường kèm theo sự êm ái và ngẫu hứng nhờ bản dịch tiếng Nga mà ông đã thuộc lòng.
Ngày 3/11/2003, trái tim của nhà thơ nhân dân Đaghextan Raxun Gamzatov đã ngừng đập. Con đại bàng của Đaghextan đã ngừng bay. Ông được chôn cất ở ngọn núi Tarki- Tai, bên cạnh ngôi mộ của người vợ yêu quí Patimat.
Nguồn: diendan.nuocnga.net/showthread.php?t=117 - 179k -[/justify]