gửi bởi sinan » Thứ 6 30/11/07 9:19
Trong mô hình về nhân cách của S. Freud, thoạt tiên ta thấy ông lựa ra hai hệ thống: “cái ấy” và “cái tôi” để sau này, bổ sung thêm “cái siêu tôi”. “Cái ấy” là hàm chứa những ham muốn vô thức hay những đam mê đã bị chèn ra khỏi ý thức. Nó là tầng cổ xưa của tâm lý luôn cực kỳ khoa khát được mãn nguyện. Còn “cái tôi” được ý thức đó chính là cái trung gian giữa “cái ấy” và thế giới bên ngoài, được hình thành trong quá trình xã hội hoá cá thể. “cái tôi” phục vụ những ham muốn của “cái ấy”, mưu toan dẫn dắt những kích thích động phi lý của “cái ấy” để tương hợp với những đòi hỏi của hiện thực, với những luận cứ của lý tính nhằm hạn chế chúng với sự trợ giúp của hàng loạt những cơ chế chúng với sự trợ giúp của hàng loạt những cơ chế phòng vệ khác nhau. Quan trọng nhất trong chúng là cơ chế để chèn ép những ham muốn không cần thiết ra khỏi giới hạn của ý thức từ góc độ văn hoá. Với sự giúp đỡ của việc lý tính hoá ý thức lý giải những hành động bị dấy lên bởi những khao khát không được phép từ quan điểm xã hội và những động cơ được xã hội chấp nhận. Với sự giúp đỡ của việc “phóng chiếu”, những khát khao và những kích động vốn có được gán cho đối tượng bên ngoài, gán cho người khác. Với sự trợ giúp của việc “thăng hoa”, những năng lượng của sư kích động đã bị cấm đoán được giải toả bằng những phương thức khác nhau mà cả xã hội và cá nhân đều chấp nhận. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều cơ chế bảo vệ khác cho phép kiểm soát sức ép của các ham muốn.
“Cái siêu tôi là kết quả của việc nội quan hoá những đòi hỏi và những mệnh lệnh của đời sống xã hội. Quá trình chuyển hoá những đòi hỏi và những mệnh lệnh bên ngoài thành các nhân tố của thế giới bên trong được thực hiện dưới ảnh hưởng của các quan hệ cảm xúc với cha mẹ, với những người giáo dục, với “các thủ lĩnh” theo nghĩa rộng của từ này, bao gồm cả các thủ lĩnh chính trị. Thông thường, “cái siêu tôi” này hành động một cách vô thức, nhưng nó cũng có “những đại diện” của mình trong ý thức - lương tâm, quan niệm về những con người lý tưởng mà cá thể này tôn kính hoặc ngưỡng mộ. Nếu như “cái tôi” có dấu hiệu giải quyết các sự việc hay thực hiện những hành động một cách vô thức, không cân nhắc đến những ngăn cấm của xã hội, thì dưới sự tác động của “cái siêu tôi”, trong đó sẽ nảy sinh cảm giác hối hận, sự quở trách của lương tâm, nỗi sợ hãi.
Như vậy, trong mô hình của S. Freud, chúng ta thấy có những cách tiếp cận mới với cấu trúc của tâm lý. Khi khẳng định rằng, “bản chất nhân cách của chúng ta được tạo thành bởi cái tôi thầm kín mà không có mảy may một mối quan hệ trực tiếp nào với thế giới bên ngoài”, thì rõ ràng, S. Freud đã đánh giá quá mức vai trò của cái vô thức, đã phổ quát hoá sự cách biệt giữa những người bị bệnh tâm thần với môi trường xã hội. Nhưng, mặt khác, ông đã quan tâm một cách đúng đắn đến sự đa phương diện trong động cơ hoạt động của con người, đến sự tồn tại ở trong nó một sự liên kết chặt chẽ và phức hợp những nhân tố sinh học, cá tính và xã hội. Hơn nữa, S. Freud đã đưa ra quan niệm về chức năng của “cái tôi”, của cái ý thức một cách hoàn toàn mới mẻ. Phân tâm học đã bác bỏ sự đồng nhất tâm lý với ý thức, một sự đồng nhất vẫn thống trị trong tâm lý học bấy lâu nay, bởi tâm lý còn bao hàm trong mình cả cái vô thức kia. Đồng thời, ông cũng không bằng lòng với cái nhìn hẹp hòi vào ý thức chỉ như một luồng những tư tưởng và những quan niệm. Với S. Freud, ý thức được hình dung như một hệ thống phức hợp và đa cấp độ nhằm đảm bảo cho việc gìn giữ tính chỉnh thể của nhân cách. Dù cho “cái tôi” quả là hãy còn yếu ớt để xông vào cuộc chiến trực tiếp với “cái ấy”, còn những lý lẽ của lý tính không đủ khả năng làm giảm áp lực của các ham muốn thì rốt cuộc, sức mạnh của cái vô thức cũng vẫn không phải là tuyệt đối. Để kiểm soát cái vô thức, ý thức có thể sử dụng sức mạnh của “cái Siêu tôi” để chống lại những hàm muốn phá hoại xã hội, sử dụng những quy luật của chính cái vô thức - nguyên lý tối thượng của sự mãn nguyện để chứng minh rằng, việc thực thi những ham muốn vô thức như thế chăng đem lại sự mãn nguyện đâu. Đồng thời, những cách tiếp cận mới này còn bị giảm giá trị thực sự bởi sự thấu hiển những khía cạnh vô thức của tâm lý một cách phiếm diện và hẹp hòi chỉ nhăm nhe quy chúng vào những ham muốn tình dục hay hiếu chiến và bởi việc bóp méo mối quan hệ của chúng với ý thức. Cái vô thức và cái ý thức trong tâm lý không nhất thiết phải nằm trong trạng thái mâu thuẫn đối kháng, trong những tình huống nhất định, chúng có thể thống nhất với nhau để tạo thành một chỉnh thể hoà hợp cả nhân tố vô thức và ý thức.
Sự đối kháng của “cái tự nhiên” và “cái văn hoá” trong mỗi cá thể tất yếu phải làm tăng theo sự đối kháng giữa những khát vọng cá nhân và những mục tiêu phát triển của văn hoá. S. Freud đã hiểu văn hoá hoàn toàn theo lối truyền thống mà theo đó, văn hoá có nghĩa là toàn bộ tổng thể những tri thức và hiểu biết cho phép con người khai thác những sức mạnh của tự nhiên nhằm thoả mãn những nhu cầu vốn có của mình cũng như tất cả các thiết chế điều chỉnh những mối quan hệ tương hỗ giữa con người với con người. Hay nói một cách văn tắt, theo S. Freud, văn hoá là tất cả những cái nâng cuộc sống con người vượt lên trên động vật. Chức năng chủ yếu của văn hoá - đảm bảo sự sinh hoạt hoà hợp của mọi người bằng con đường hạn chế những ham muốn phản lại xã hội và trao “những lối thoát dự trữ” cho những khao khát đã bị chèn ép hay lấn át. Chính từ đây, trong học thuyết của ông đã xuất hiện thuật ngữ “văn hoá trấn áp”. Có lẽ vì thế mà ở nhiều chỗ khác nhau và bằng nhiều cách khác nhau, S. Freud đã mô tả xung đột của văn hoá với con người. Chẳng hạn, trong Tương lai của một ảo tưởng, ông nói về mâu thuẫn giữa những mong muốn hạnh phúc mang đầy tính ích kỷ của mỗi người với mong muốn của văn hoá trong việc tạo nên sự liên kết giữa người với người. Trong những luận đề về hai nguyên tắc của hoạt động tâm lý, ông lại khẳng định rằng, chỉ ở thời thơ ấu, con người mới được tự do hoàn toàn, bởi vào lúc đó, nguyên tắc mãn nguyện đang thống trị trong tâm lý, còn môi trường bên ngoài lại tương ứng với nguyên tắc này. Xã hội hoá con người chính là ở việc từ bỏ sự thoả mãn trực tiếp bằng những khát khao. Con người ngày càng hạn chế “cái tự nhiên” của mình và buộc phải thoả mãn những ham muốn bằng con đường vòng và buộc phải bao bọc chúng bằng những hình thức văn hoá. Trong Không mãn nguyện bởi văn hoá, S. Freud lại tiếp tục tìm kiếm thực chất của sự xung đột này. Theo ông, một trong những mong muốn chủ yếu của văn hoá chính là việc liên kết mọi người thành những cộng đồng lớn hơn mà sự liên kết này, không thể có được nếu không có việc hạn chế ham muốn tình dục, bởi tình yêu bao giờ cũng hướng các cá thể vào những khuôn khổ hạn hẹp của đôi lứa và gia đình. Có lẽ vì thế mà văn hoá đã tước đoạt một lượng lớn năng lượng tâm lý của tình dục để dành cho những mục đích của tập thể. S. Freud đã khẳng định rằng, văn hoá hiện đại không cho phép tình dục tồn tại với tư cách là một cội nguồn độc lập của sự khoái cảm; nó biến đổi và ép buộc tình dục chỉ còn là phương thức sinh sản thôi.
Những hạn chế như thế là tất yếu, bởi hãy còn tồn tại một ham muốn chủ yếu nữa ở con người: sự hiếu chiến. Theo S. Freud việc tìm hiểu ham muốn ấy chẳng khó khăn gì. Chúng ta có thể cảm nhận nó ở trong chính bản thân mình và ở những người khác. Tính hiếu chiến vốn có ở con người luôn đe doạ sự tồn tại của xã hội, bởi thế mà nó phải được đè nén một cách nghiêm túc bằng những ngăn cấm mang tính văn hoá.
Như vậy, có thể nói, cách tiếp cận phân tâm học đã đưa S. Freud tới việc hiểu sai bản chất của văn hoá. Ngay cả Hêgen cũng cho rằng, sự tồn tại chân chính của con người là trong hành động của nó. S. Freud đã trộn lẫn lao động với bản tính tự nhiên của con người. Ông cho rằng, theo bản tính tự nhiên của mình, con người không thích làm việc. Nhưng vì quyền lợi của toàn cộng đồng, văn hoá đã cưỡng bức con người phải lao động. Thực ra, hoạt động sáng tạo của con người là cội nguồn, là nền tảng của đời sống con người. Chính trong tiến trình này mà “cái tự nhiên” đã được nhân cách hoá và “cái văn hoá” đã được sinh thành. Nhận thức duy vật lịch sử của C.Mác đã khám phá ra điều đó. S. Freud đã có lý khi chia khát vọng cá nhân thành “Sống theo mong muốn” và “sống theo tất yếu”. Nhưng S. Freud lại quên rằng, mong muốn của con người được hình thành trong hoạt động tập thể của mọi người. Vì thế, theo bản chất của mình, chúng không đối lập với những tất yếu xã hội, mà bao hàm cả những tất yếu ấy. Có lẽ vì thế mà những người kế nghiệp S. Freud đã cố gắng thoát khỏi những bế tắc trong học thuyết của ông. Chẳng hạn, E.Phrom đã sáng lập ra “phân tâm học nhân văn” nhằm xem xét lại hàng loạt những luận điểm cơ bản của phân tâm học cổ điển mà trước tiên là quan niệm về bản chất của con người và sự xung đột tất yếu của nó với văn hoá. Đối với E. Phrom, “cái nhân loại” sẽ bắt đầu ở nơi mà “cái tự nhiên” kết thúc. Quan điểm như thế đã bị xem là “xét lại” chủ nghĩa S. Freud, đã bị coi là có ý tổng hợp học thuyết của S. Freud với học thuyết của C. Mác, “xã hội hoá” học thuyết của S. Freud và “nhân văn hoá” học thuyết của C.Mác. Thực ra, những tìm tòi của E.Phrom đã một lần nữa chỉ ra rằng, chỉ có học thuyết của C.Mác mới đem lại cho chúng ta cơ sở phương pháp luận đúng đắn để hiểu rõ bản chất của văn hoá và con người./
Nguyễn Huy Hoàng
Nguồn : CHungta.com
Sin Ân