Biển nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương, hoặc là các hồ lớn chứa nước mặn mà không có đường thông ra đại dương một cách tự nhiên như biển Caspi, biển Chết. Thuật ngữ này đôi khi cũng được sử dụng với một số hồ nước ngọt khép kín hoặc có đường thông tự nhiên ra biển cả như biển Galilee ở Israel là một hồ nước ngọt nhỏ không có đường thông tự nhiên ra đại dương hay biển Hồ ở Campuchia. Thuật ngữ này được sử dụng trong đời sống thông thường như một từ đồng nghĩa với đại dương, như trong các câu biển nhiệt đới hay đi ra bờ biển, hoặc cụm từ nước biển là chỉ một cách rõ nét tới các vùng nước của đại dương nói chung.
Diện tích biển của Việt Nam hiện đang lớn gấp ba lần diện tích đất liền, đồng nghĩa với việc chúng ta đang có tới ba nước VN thu nhỏ, chưa kể khả năng tiếp cận không gian đại dương là vô tận", TS. Trần Đình Thiên nói. Theo ông, đây chính là thời điểm để xây dựng một chiến lược về biển.
"VN là một trong những nước có diện tích bờ biển dài nhất thế giới".
Về hệ toạ độ C-T-K
Chủ thể: Biển với con người
Thời gian: Mọi lúc, khi con người có nhu cầu
Không gian: Trên biển, trong lòng biển, bãi biển và bầu trời trên biển
Giá trị của biển:
Biển trước hết vẫn chỉ là đối tượng để sinh tồn và khai thác thủ công.
Biển, từ lâu đã đi vào tâm thức của người Việt như là máu thịt của dân tộc. Biển đã nuôi sống dân tộc ta không chỉ là nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu, mà tạo ra một môi trường sống hết sức quan trọng, trong đó có khí hậu, sinh thái, cảnh quan, đồng thời là nguồn tài nguyên hết sức to lớn với những khoáng sản trong lòng biển, và là cơ sở để xây dựng một nền kinh tế biển đa dạng, tiềm năng, như du lịch, vận tải đường biển...
Nếu không có lương thực và năng lượng từ biển, một nửa dân số trên thế giới sẽ đói nghèo. Đối với người Việt Nam, với chiều dài bờ biển hơn 3.200 km, có đến hơn 20 triệu người có cuộc sống gắn liền với biển.
Tính lịch sử:
Câu chuyện giết chết ngư tinh cho thấy một Lạc Long Quân giỏi nghề biển khi đóng được chiếc thuyền lớn để làm phương tiện đi giết loài thủy quái. Cuộc chiến đấu với ngư tinh hết sức ác liệt. Ngư tinh bị chém làm ba khúc, liền hóa thành con chó biển. Chó biển lại bị Lạc Long Quân giết chết, vứt đầu lên một hòn núi, mà nay chính là ngọ núi Cẩu Đầu Sơn; khúc mình của ngư tinh trôi ra Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Đầu Thủy; khúc đuôi của ngư tinh bị Lạc Long Quân lột da đem phủ lên một hòn đảo giữa biển. Hòn đảo ấy nay là Bạch Long Vĩ.
Cuộc hôn nhân Lạc Long Quân – Âu Cơ kỳ vĩ như sự hình thành Tổ quốc của chúng ta, có nhiều dân tộc anh em. Âu Cơ vốn giống Tiên, nên sau khi sinh 100 trứng nở ra 100 con, Lạc Long Quân cho rằng giống Tiên – Rồng khó ở với nhau lâu dài, nên hai người thỏa thuận: Âu Cơ đưa 50 người lên núi, Lạc Long Quân đưa 50 người con xuống ven biển để sinh sống, nếu gặp nguy thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau.
Qua truyền thuyết này chúng ta thấy tâm thức biển với người Việt đã được hình thành từ đức tổ Lạc Long Quân – Âu Cơ. Tục xăm mình của dân tộc Kinh có từ thời cổ đại đến đời nhà Trần cũng thể hiện được tinh thần của tâm thức biển. Biển với người Việt Nam và các dân tộc anh em trên lãnh thổ hình chữ S này tồn tại vĩnh cửu và thiêng liêng.
Từ thời nhà Ngô hoặc lâu hơn nữa, thủy quân Việt đã có những bước phát triển mạnh mẽ, điển hình là chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng. Đến đời nhà Trần, thủy quân đã phát triển vượt bậc, đã góp phần rất lớn trong ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông. Cho đến thời Tây Sơn, thủy quân Việt đã quá mạnh, làm chủ hoàn toàn biển đảo trên biển Đông. Hãy nhớ trận đánh tan tác 2 vạn quân Xiêm của Nguyễn Huệ ở Rạch Gầm – Xoài Mút, thủy quân của Nguyễn Huệ không cần ghé Cần Giờ, mà đi thẳng xuống Mỹ Tho và bố trí một trận địa thủy chiến hết sức táo bạo, quét sạch quân Xiêm ra khỏi đất nước như trở bàn tay.
Trong tiến trình lập nước và dựng nước, dân tộc ta cũng theo hướng Nam, cứ ven biển mà tiến, cho đến “tận cùng của biển”, mở ra một tương lai xán lạn cho cả dân tộc.
Tính nhân sinh:
Thực chất của quá trình dựng nước đầu tiên ở nước ta là một quá trình lấn biển theo hai hướng: từ núi xuống (lấn biển) và ngược lại, từ hướng biển lên (biển lấn). Có những nhóm người thời biển tiến toàn tân là cư dân ven biển nhưng sang đến thời kỳ cách đây 4.000 - 5.000 năm, theo đà biến thoái, họ đã nghiễm nhiên trở thành cư dân nội địa, cư dân của vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu. Đó là một trong những nét độc đáo thể hiện tính chất bản địa của những nhóm cư dân thời dựng nước, trong đó có cư dân của nước Văn Lang.
Tính biểu trưng:
Biển là khát vọng của thi ca, để so sánh, an ủi, ví von...
Chúng ta xét biển trên bình diện văn hoá
Văn hoá tận dụng
Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong tương lai. Kết quả thăm dò, khảo sát đến nay cho thấy, tiềm năng tài nguyên biển của nước ta tuy không được coi là vào loại giàu có của thế giới, nhưng cũng rất đáng kể và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Dọc bờ biển có một số trung tâm đô thị lớn, có trên l00 địa điểm có thể xây dựng cảng, trong đó, một số nơi có khả năng xây dựng cảng quy mô tương đối lớn (kể cả cấp trung chuyển quốc tế); có nhiều đảo có giá trị kinh tế cao; có nhiều bãi biển lớn và nhỏ, cảnh quan đẹp, trong đó, có những bãi biển đủ tiêu chuẩn quốc tế để phát triển các loại hình du lịch biển. Ngoài ra, ven bờ biển có nhiều khoáng sản quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp như than, sắt, titan, cát thuỷ tinh, các loại vật liệu xây dựng khác và khoảng 5 - 6 vạn ha ruộng muối biển.
Vùng ven biển Việt Nam có dân cư tập trung khá đông đúc, với khoảng hơn 25 triệu người, bằng gần 31% dân số cả nước và khoảng hơn 13 triệu lao động (năm 2005). Dự báo đến năm 20l0, dân số vùng ven biển khoảng gần 27 triệu người, trong đó lao động gần 18 triệu người; năm 2020, dân số khoảng trên 30 triệu người, trong đó, lao động khoảng gần l9 triệu người.
Văn hoá đối phó:
Tại Việt Nam, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định, Việt Nam sẽ là một trong những nước sẽ chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu. Theo tính toán, đến năm 2100, nếu thế giới không tích cực có giải pháp hạn chế hiệu ứng nhà kính và nhiệt độ Trái đất nóng thêm 2 độ C thì chắc chắn ở Việt Nam nước biển sẽ dâng lên chừng một mét. Trong trường hợp này, 3/4 đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long - hai vựa lúa lớn nhất của Việt Nam sẽ bị ngập, sản lượng lương thực của chúng ta bị mất ít nhất 10% và khoảng 10% dân số Việt Nam sẽ mất công ăn việc làm
Với hơn 3.000 km bờ biển, Việt Nam được coi là quốc gia có mức độ dễ bị tổn thương cao hơn trước sự biến đổi khí hậu. Ðể đối phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu như Nghị định thư Ky-ô-tô, cơ chế phát triển sạch.... Việt Nam đang nghiên cứu và từng bước thực hiện những dự án để tiến tới một dự án tổng thể về thích ứng với biến đổi khí hậu. Chính phủ Việt Nam đã khẳng định, việc phòng, chống, kiểm soát và giảm thiểu hậu quả của thiên tai là một trong những mục tiêu ưu tiên. Thực tế trong công tác phòng, chống thiên tai, nếu như trước đây chúng ta chỉ chú trọng phòng và khắc phục hậu quả, thì gần đây đã có sự chuyển hướng trong việc thích ứng và tìm biện pháp phòng ngừa, giảm nhẹ hậu quả thiên tai. Cụ thể là chương trình sống chung với lũ ở đồng bằng sông Cửu Long và mới đây Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, ngành liên quan nghiên cứu giải pháp thích ứng với lũ ở miền trung...
Văn hoá sùng bái và lưu luyến:
Biển không những cho ta nguồn lợi dồi dào mà còn cho chúng ta chiêm ngưỡng cảnh đẹp của biển cả bao la. Có những bãi biển thu hút một lượng khách lớn đổ về.
trên bãi biển Sầm Sơn