TỤC ĂN TRẦU Ở VIỆT NAM
Đã bao giờ bạn thử ăn trầu chưa? Tôi đã từng ăn trầu, đó là lúc tôi học lớp 5 – lần đầu tiên tôi nhai trầu là lúc cái mặt tôi nhăn lại như mặt khỉ vì cay, vì nồng, vì đắng… Nhìn mẹ ăn trầu mà tôi thấy mẹ thật là hay, tại sao mẹ không thấy cay, mà mẹ chỉ khen ngon? Có thể nói ăn trầu cũng cần phải có nghệ thuật, và khi đã mê cái hương vị của trầu rồi thì khó mà bỏ được nó.
Ăn trầu là phong tục cổ truyền của người Việt. Sự tích kể rằng, bộ ba cây cau, dây trầu, đá vôi là hiện thân của hai anh em nhà họ Cao và cô gái, đến chết vẫn luôn ở bên nhau trọn nghĩa an hem, trọn tình vợ chồng. Cô gái là dây trầu quấn quýt bên chồng( thân cau) với ước nguyện suốt đời thủy chung. Người anh là bong mát che chở người em(đá vôi). Trầu cau và đá vôi là mối tình dân tộc, đến bây giờ trong lễ cưới hỏi của người Việt vẫn luôn có mâm trầu, buồng cau. Miếng trầu cay, nồng thắm đỏ, ăn rồi không bỏ được nhau. Cây cau, giàn trầu mọc nơi góc vườn ngời nên nét đẹp tthanh cao trong những đêm trăng sáng. Đó là duyên là tình, là sự hòa hợp của những câu chuyện cổ tích “ngày xửa, ngày xưa…”.
Ở Việt nam mọi thứ đều tuân theo nguyên tắc âm dương hài hòa từ tư duy đến cách sống, từ dấu vết cổ đến thói quen hiện đại. Và tục ăn trầu cau ẩn một triết lý về sự tổng hợp của nhiều chất khác nhau: cây cau vươn cao là biểu tượng của trời(dương), vôi đất đá biểu tượng của đất(âm), dây trầu mọc lên từ đất, quấn quýt lấy than cau, biểu tượng cho vai trò trung gian hòa hợp. Sự tổng hợp biện chứng của âm – dương, tam tài ấy tại nên một kết hợp hết sức hài hòa. Trầu quyết vôi nhai cùng với cau, miếng trầu có cái tươi ngọt từ hạt cau, cái cay của lá trầu, của thuốc lào, cái nồng nàn của vôi, cái bùi của vỏ cây chat(tức miếng rễ)…tất cả tạo nên một chất kích thích, làm cho thơm mồm đỏ môi và khuôn mặt bừng bừng như say rượu. Ăn trầu có nhai mà không nuốt, nó mang một tính cách linh hoạt hiếm thấy- không phải ăn, không phải uống, cũng không phải hút.( trích :Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc Thêm.)
Với người Việt trầu cau là biểu hiện của phong cách và thể hiện tình cảm dân tọc độc đáo. Gặp nhau sau câu chào, người ta thường mời trầu. Với người dân quê Việt Nam, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám bổ tư và vỏ rễ chay luôn là sự bắt đầu cho việc khơi gợi tình cảm. Miếng trầu giúp người với người gần gũi với nhau hơn. Và với các nam nữ thanh niên xưa thì nó là cội nguồn để bắt đầu tình yêu, câu hát để vào với hội làng hội nước. Khi người con gái cầm miếng trầu do người bạn trai trao thì đó không chỉ đơn giản là trầu:
“Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đến ơn”.
Cây cau thẳng, dây trầu mềm thì ở khắp nơi trên đất nước Việt nam nơi nào cũng có. Hàng cau và giàn trầu là biểu hiện của sự thái bình, của nết đẹp mộc mạc, giản dị nhưng in đậm tâm hồn người Việt. Ngày xưa ngoài Bắc, dọc ven sông Hồng có câu hát:
“Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh.”
Còn ở miền Trung, ở đâu cũng có bóng cây cau và vang câu hát:
“Bồng em mà bỏ vô nôi,
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, Chợ Cầu,
Mua cau Bát Nhị, mua vôi Hội An.”
Mỗi loại đồ ăn đều có những tác dụng khác nhau và trầu cũng không ngoại lệ. Ăn trầu có tác dụng trừ sơn lam chướng khí, thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm, chống sâu răng, gây chảy nước bọt…; lá trầu còn có tác dụng chữa bệnh nấc cho trẻ, bệnh đau mắt cho cụ già, chữa các mụn ;làm mủ sưng tấy…
Trầu dùng tiếp khách hàng ngày, như bát chè xanh, như điếu thuốc lào. Trầu làm sính lễ trong đám hỏi, trầu thay cho bức thiệp mời trước ngày hôn lễ, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui buồn của làng quê, khi Xuân đến, Tết về. Ngoài ra trầu còn dung làm quà tặng. Thơ Nguyễn Khuyến có câu:
“Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ
Xin đôi câu đối để mừng ông.”
Hơn nữa, trầu cau còn là đồ cúng lễ vào ngày giỗ. Dân gian có câu “sửa cơi trầu, đĩa hao dâng cụ” để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của ông cha ta.
Ngoài ra, khi chưa phát hiện ra cây lúa nước, người ta dùng bột trong lòng các cây cau để làm thực phẩm( bột quang lang, bột sago, bột bang, bột nhúc…) Sợi dây cau làm áo, mo cau dùng làm cái võng , làm quạt( vì vậy dân gian có bài Thằng Bờm có cái quạt mo rất đáng yêu và hóm hỉnh) hoặc mo cau dùng làm đồ chơi cho trẻ con…Cây cau được xem là cây vũ trụ vì dáng cau thẳng đứng để đo bóng mặt trời. Các đốt của than cau gộp lại thành cái thước đo.
Về lá trầu, thường thì trong mâm trầu cau thường có 8 xấp, mỗi xấp 8 lá trầu, tượng trưng cho sự hình thành vũ trụ. Trầu có hai loại lá: Lá trầu vàng (gọi là nhánh ác) có màu xanh non, mình mỏng, ăn ngon nhưng dễ dập khi mang đi xa. Lá trầu xanh( gọi là mình đây) mọc sát thân trầu, có màu xanh đậm, mình dày, ăn không ngon bằng lá trầu vàng, nhưng ít hư nên dễ mang đi xa.
Trầu cau thường gắn liền với sinh hoạt nông thôn từ lâu đời nhưng những vật dụng ăn trầu hôm nay vẫn thấy, đó là cơi trầu (gắn liền với câu: đàn bà sắc như cơi đựng trầu). Bộ cơi trầu gồm: đầu tiên phải kể đến bình vôi( làm bằng gốm, sứ, bạc hoặc ngà) trong bình vôi có cái chìa vôi. Thứ hai là chén` ngâm cau khô. Thứ ba là dao bổ cau( gắn liền với câu: mắt sắc dao cau). Thứ tư là cối đâm trầu( dùng làm giập trầu cho những ngưởi răng yếu nhưng vẫn còn yêu thích vị cay nồng của miếng trầu). thứ năm là ống nhổ để nhổ bã và nước trầu. Cuối cùng là lá trầu, quả cau tươi hoặc miếng cau khô, vôi đỏ hoặc vôi trắng, thuốc lào, miếng vỏ cây chat(tức rễ cây). Nhà giàu còn có trap trầu, khay trầu sơn màu rất đẹp. Qua đây ta thấy, trầu cau gắn liền với sinh hoạt nông thôn từ lâu đời.
Trầu cau gần gũi với sinh hoạt của người Việt cho nên nó trở thành hình tượng của văn học dân gian. Đầu tiên là sự tích trầu cau bi ai nhưng thắm đượm tình nghĩa. Rồi có cả hàng trăm câu ví, câu đối, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gain mà tiêu biểu nhất là những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu. hát mời trầu là nói tới trầu, cau, vôi, vỏ hoặc nói về cái tài của người têm trầu, bổ cau. Bởi vì cách têm trầu là thước đo tài khéo léo của người phụ nữ, qua miếng trầu người ta có thể thăm dò để lựa con dâu. Miếng trầu têm vụng là biết người không khéo tay, trầu têm nhỏ hơn cau là người không biết tính toán, vôi bết nhiều là người hoang phí…
Câu hát mời trầu là câu hát bày tỏ long mình. Bên cạnh những “vôi nồng”, “miếng trầu cánh phượng”, “cau bổ bốn bổ ba”, là những ‘trầu giải yếm giải khăn”, “trầu loan trầu phượng, trầu tôi trầu mình” là những “trầu tính trầu tình”, “trầu nhân trầu ngãi”… để rồi thành”trầu mình lấy ta”, “trầu nên vợ nên chồng”. Tục ăn trầu còn gắn với tục nhuộm răng đen để có những má hồng răng đen, làm rung động nhiều chàng trai:
“Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.”
Nhà thơ Hoàng Cầm cũng có những câu thơ nói về tục nhuộn răng trong bài “Bên kia sông Đuống”:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”.
Trầu cau còn là đề tài để các nhạc sĩ sang tác. Tiêu biểu là bài “Hoa cau vườn trầu” của Nguyễn Tiến .
“… Nhà anh có một vườn cau, nhà em có một giàn trầu. Ngày ngày anh qua bên ấy, hoa cau bên này rụng trắng sân nhà em. Anh lên đường mẹ xin lá trầu nhuộm áo cho anh, một lá trầu xanh thắm tình anh không phai màu. Hoa cau rụng trắng sân nhà anh mà hương cau ngan ngát quanh vườn trầu. Lá vẫn xanh tươi màu, xin ai đừng để lá trầu vàng…”.
Với người dân Việt thì tục ăn trầu không còn gì lạ, nhưng tục ăn trầu có ở bao nhiêu quốc gia? Ăn trầu cau là phong tục phổ biến khắp vùng Đông Nam Á. Vùng trầu được gọi là văm minh gíó mùa, gồm cà Ấn Độ,. Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia. Vùng trầu chiếm hơn 8 triệu km vuông và trên thế giới có 200 triệu người ăn trầu.Tục ăn trầu phổ biến đến mức trở thành thước đo thời gian:
“Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em chừng giập bã trầu em sang…”
Nơi tôi sinh ra và lớn lên có rất nhiều người ăn trầu. ông bà ngoại và mẹ tôi cũng là những người rất mê cái hương vị đặc biệt của trầu. mẹ tôi có thể nhịn an một hoặc hai ngày nhưng không thể nhịn ăn trầu dù chỉ là một giờ, có những lúc mẹ ốm không ăn uống gì chỉ kêu đắng miệng nhưng trầu thì mẹ không thể không ăn. Có thể khẳng định rằng, với những người biết thưởng thức cái hương vị cay nồng thơm ngon của trầu thì không thể không yêu thích nó. Ngày nay, với sự phát triển chóng mặt của khoa học và công nghệ thông tin thì tục ăn trầu đã có phần phai mờ. Giờ đã thưa dần những người ăn trầu, kể cả ở các làng quê, nhưng trầu cau vẫn mang cốt cách tao nhã, sang trọng, vẫn là “đầu trò tiếp khách” trong những lễ nghi quan trọng của đời người như cưới, hỏi… Dù son phấn đương đại đã làm mất dần cái duyên ăn trầu của người con gái, song nét văn hóa trầu cau không dễ phai mờ trong truyền thống người Việt Nam./.